Thứ Sáu, 24 tháng 4, 2015

Làm cho quốc gia, làm cho tư nhân

Sưu tầm: thư xin thôi việc tiếng anh

Làm cho nhà nước, làm cho tư nhân

(TBKTSG) - tổng giám đốc một doanh nghiệp chuyên về nguồn nhân lực đã từng nhận xét: “Ai đã làm ở khu vực quốc gia thì chẳng thể làm nổi ở khu vực tư nhân hoặc cơ quan nước ngoài. Trái lại, ai đã ở khu vực tư nhân thì khó thích nghi với khu vực nhà nước”. Tôi lại nghĩ khác.

Hơn 20 năm trước, sau tám năm làm ở một tổ chức quản lý nhà nước cấp tỉnh một tỉnh miền Nam Trung bộ, tôi vào thành thị và làm quản lý viên cấp trung tại một công ty tư nhân sản xuất hàng tiêu thụ thuộc loại hàng đầu Việt Nam lúc ấy. Quả tình, nhiều năm làm việc trong môi trường không đòi hỏi cao, thậm chí có thể ra quán cà phê thoải mái trong giờ hành chính, ban lãnh đạo đơn vị cứ tưởng tôi không thể chịu nổi áp lực rất cao tại một doanh nghiệp tư nhân. Nhưng rồi tôi cũng quen.

Ở đơn vị này, lãnh đạo tổ chức rất quan hoài đổi mới, đặc biệt là xây dựng và hoàn thiện chế độ quản trị.

Họ nhìn trước được những thách thức của mai sau nên chủ động đổi thay hệ thống. Nhiều sáng kiến cải tiến mà tôi từng quan sát, chiêm nghiệm khi đi đây đi đó trước kia nhanh chóng được lãnh đạo doanh nghiệp đưa vào triển khai trong thực tại. Nhưng khi lương bổng của hàng ngũ quản lý cấp trung và cao cấp (trong đó có tôi sau bốn năm làm việc) khá... “Nặng túi”, người ta bắt đầu tính chuyện thuê người mới để trả ít tiền hơn và cũng để có thêm những đề nghị mới khi mà những người cũ không còn nhiều ý tưởng nữa. Vậy là tôi làm đơn xin thôi việc để tránh cái cảnh “một thời để yêu và một thời để chết”. Rồi tôi qua một doanh nghiệp tư nhân rất nức tiếng khác, nhưng không hợp văn hóa đao to búa lớn của họ. Một năm sau, tôi lại... Tung cánh chim!

Rời cơ quan tư nhân thứ hai, tôi bước chân vào tổ chức X, một tổ chức nhà nước lừng danh trong ngành dệt may thời đó.

Mấy ngày trước tiên, tôi mon men làm quen đồng nghiệp mới, hỏi một cô nhân sự phòng kế hoạch: “Em làm ở đây lâu chưa?”. Cô đáp bằng cái giọng miền Nam ngọt xớt: “Dạ mới 11 năm thôi anh à!”. Hỏi nhiều người khác thì cũng rưa rứa, mới làm có 12-15 năm là thường ngày! Tôi sững sờ vì ở hai công ty tư nhân tôi làm việc trước đó, trừ đội ngũ công nhân trực tiếp, còn thâm niên của viên chức gián tiếp thì làng nhàng chỉ 2-3 năm.

Vậy, khác biệt đầu tiên giữa khu vực quốc gia và khu vực tư nhân là làm nhà nước ít đổi thay công tác hơn (mà người ta hay nói là ổn định). Ở các tổ chức quốc gia lâu năm, không ít người gắn bó cả cuộc thế với đơn vị, khi về hưu còn xin cho con “một suất” để kế nghiệp mình. Trải nghiệm của tôi cho thấy quan hệ cư xử trong cơ quan nhà nước có phần tình cảm hơn các tổ chức tư nhân, nhất là vào các dịp lễ, Tết, đặc biệt là ngày lễ lao động 1-5.

Do hàng ngũ nhân sự ở cơ quan quốc gia ít đổi thay nên doanh nghiệp gặp chướng ngại trong đổi mới, đặc biệt là đổi mới nhân viên, đó là chưa nói đến tình trạng con ông cháu cha. Do mọi người làm việc theo lề thói, thành lối mòn nên rất khó áp dụng cái mới nếu thiếu “quyết tâm chính trị” từ ban lãnh đạo cao cấp của tổ chức.

Cũng may là lúc ấy tôi được lọt vào mắt xanh của giám đốc điều hành - một người đầy bản lĩnh, có tầm nhìn xa và ý thức đổi mới rất cao - nên nhiều đề nghị của tôi trở thành chính sách, quy định của đơn vị.

Tôi cũng nhận ra nếu không thuộc diện kề cận lãnh đạo, tức người mới từ bên ngoài vào mà là cấp thấp thì rất khó trụ trong môi trường như thế, vì các yêu cầu cải tiến thường khó lọt qua cửa cấp quản trị trực tiếp để đến cao cấp hơn. Họ dễ sinh chán nản và mất việc.

Ở doanh nghiệp quốc gia, tư duy làm kiểu công chức còn khá nặng. Đồng hồ là cái mọi người hay nhìn, cứ đến gần giờ về là phần lớn lo “thu dọn trận mạc”, chờ tiếng chuông reo là “em tan trường về”.

Trong khi đó, ở đơn vị tư nhân thì theo ý thức “làm hết việc chứ không hết giờ”. Tuy thế, tôi biết nhiều doanh nghiệp tư nhân lạm dụng ý thức này để ép người cần lao, nhất là đội ngũ quản trị. Giới chủ thường nói làm hết việc là bổn phận của cấp quản trị, đã hưởng lương bổn phận thì không tính làm thêm giờ, chỉ tính cho viên chức. Theo tôi, làm hết việc chứ không hết giờ chỉ đúng khi trong tháng có 5, 7 ngày làm việc, hội họp đến 8 giờ tối thì cũng có đôi ba ngày ít việc được về sớm lúc 3, 4 giờ để thư giãn. Chứ ngày nào cũng đầu tắt mặt tối đến 7, 8 giờ tối mà không tính tiền làm thêm giờ thì lại là chuyện quan hệ lao động chứ không phải là diễn đạt ý thức “làm hết việc chứ không làm hết giờ”.

Câu chuyện của tôi cho thấy không hoàn toàn là ai đã ở khu vực tư nhân thì sẽ khó thích nghi với khu vực quốc gia, và trái lại. Cũng không hẳn là từ khu vực tư nhân này thì sẽ chóng vánh hòa nhập được ngay với khu vực tư nhân khác. Câu chuyện của tôi cũng ít nhiều phản ánh phần nào ưu khuyết điểm trong quản lý và dùng người của các tổ chức Việt Nam, cả tư nhân lẫn quốc gia.

Nguyễn Thiện | thesaigontimes.Vn

Chủ Nhật, 12 tháng 4, 2015

Các cách thức phân tích công việc - Hrm Blog

Các phương pháp phân tích công việc

1.Cách thức làm bản câu hỏi:

Ở cách thức này nhà quản trị gởi các câu hỏi đến các đối tượng có ảnh hưởng đến việc tìm hiểu các thông tin cho việc phân tích công việc. Các đối tượng mà các nhà quản lý thường đề xuất họ cung cấp thông tin bao gồm:

-Người đảm đương công tác

-Người giám sát công việc

-Chuyên gia phân tích công việc

-Một nhóm những người với cùng một chức danh công việc.

Tất nhiên không nhất quyết là tất cả các nhân sự đều phải điền vào bản câu hỏi. Người ta có thể chọn một cách tình cờ cho từng chức danh công tác. Điều đó giúp chúng ta giảm bớt khối lượng thông báo cần xử lý mà vẫn bảo đảm độ xác thực cho phép. Tất nhiên ta có thể phải xác nhận sự đúng đắn của các câu trả lời trong giai đoạn quan sát của nghiên cứu này.

Trong bản câu hỏi ngoài những chi tiết căn bản như danh tiếng, phòng ban, chức vụ … người chịu nghĩa vụ bộc lộ cần phải biểu lộ toàn bộ nhiệm vụ, mục đích công tác , khối lượng công việc hoặc số sản phẩm …

Bản câu hỏi phân tách công tác thường đề cập đến các vấn đề sau đây:

-Thông tin chung về vị trí công việc

-Giám sát và chịu sự giám sát

-Các lĩnh vực kiến thức và kỹ năng nghề nghiệp

-Sử dụng tiếng nói

-Sử dụng thị giác và các giác quan khác

-Các quyết định quản trị và kinh doanh

-Các giao dịch nội bộ và bên ngoài

-Các cuộc họp mà bạn tham dự , làm chủ tọa hoặc làm người dẫn chương trình

-Các hoạt động thể chất

-Sử dụng thiết bị , máy móc và công cụ

-Các điều kiện môi trường

-Các đặc tính khác của công tác

Ngoại giả phương pháp này có những trở ngại, hạn chế:

- Công nhân không thích điền vào bản câu hỏi một cách chi tiết và bởi thế sẽ không trả lời đầy đủ.

- Cả công nhân lẫn cấp điều hành không có nhiều thời kì để xử lý bản câu hỏi.

Sau đây là những câu hỏi thường áp dụng để thu thập thông báo cho việc phân tích công việc:

1.Anh (chị) hãy trình bày một ngày làm việc thường ngày?

2.Những nghĩa vụ chính trong công việc là gì?

3.Theo anh (chị) những phần quan trọng nhất trong công tác là gì? vì sao chúng lại quan yếu?

4.Anh (chị) hãy kể tên và biểu đạt cách thức thực hành những phần khó nhất trong công tác?

5.Theo anh (chị) những thách thức nhiều nhất trong công tác là gì?

6.Những kiến thức nào quan yếu thúc đẩy đến thực hành công việc?

7.Những phần việc nào nên được ủy quyền? Cho ai? Như thế nào?

8.Loại cảnh huống nào thường gây ra găng tay nhất trong công việc?

9.Theo anh (chị) công tác đòi hỏi phải tham gia những cuộc họp như thế nào? Sẽ có báo cáo nào?

10.Lĩnh vực nào của công tác thường tạo ra sự hài lòng nhất? Hoặc không hài lòng nhất? tại sao?

11.Theo anh (chị) có các quan hệ nào trong thực hành công tác? Điều kiện cần lao, quy chế cần lao như thế nào?

12.Anh (chị) thường phải giám sát hoạt động công việc của những ai? Ở chức phận nào?

13.Theo anh (chị) những khóa   huấn luyện   , kỹ năng, kinh nghiệm đặc biệt cần có để thực hành công việc tốt là gì?

14.Các máy móc, phương tiện nào thường được sử dụng? Công dụng, tính năng, tác dụng, phương pháp vận hành?

15.Trong toàn bộ quá trình làm việc, cần phải ra quyết định nào? thời kì cần thiết để đưa ra các quyết định như vậy?

16.Theo anh (chị) công việc có những đề nghị trách nhiệm nào về tiền nong, chừng độ an toàn hoặc những giá trị khác?

17.Công tác có những đề xuất nào về nghĩa vụ đối với khách hàng hoặc các mối can hệ khác bên ngoài doanh nghiệp?

18.Những tiêu chuẩn được sử dụng để được kiểm tra là thực hiện tố công tác là gì?

2. Cách thức chuyên gia (phương pháp hội đồng):

Cách thức này sử dụng một số chuyên gia am tường về công tác cần phân tích để thu thập thông tin xây dựng bản biểu hiện công việc và bản tiêu chuẩn công việc .Các chuyên gia này có thể là những người đã hoặc đang là người thực hành công việc đó, cũng có thể họ là người giám sát, quản trị công tác này. Sự hiểu biết sâu sắc về công tác của các chuyên gia sẽ đảm bảo cho chất lượng phân tích công việc được tăng cường .Bên cạnh đó điều này cũng chỉ ra rằng cách thức này phụ thuộc rất nhiều vào kinh nghiệm của các chuyên gia .Việc tụ hợp cùng lúc nhiều chuyên gia để đánh giá cũng là một khó khăn

3. Phương pháp quan sát:

Phương pháp này được vận dụng chính yếu đối với các công tác làm việc bằng bộ hạ. Người phân tách sẽ quan sát toàn bộ quá trình làm việc của công nhân. Trên cơ sở các   tài liệu   ghi chép được từ nơi làm việc tổng hợp lại để hình thành bản bộc lộ công việc.

Hạn chế của phương pháp này:

-Rất tốn thời gian và công sức

-Không sử dụng được cho những công tác trí tuệ.

P5media.Vn

Cung cầu nhân công: Đói anh tài

nguồn nhân công là tài sản quý báu nhất, quan trọng nhất trong quá trình phát triển của các DN.



Thành ra, bất chấp tình hình kinh tế trong nước đang gặp nhiều khó khăn do tương tác suy thoái kinh tế, nhu cầu về nhân viên cấp cao đến cần lao phổ quát vẫn không ngừng tăng cao. Tiếc rằng thị trường này ở nước ta vẫn luôn trong tình trạng cung không đủ cầu.

Thiếu trầm trọng

Cuối tháng 9, hơn 2.600 vị trí việc làm của 29 đơn vị, DN đã mời gọi người cần lao đến với “Sàn giao tế việc làm TPHCM”, do trọng tâm Giới thiệu việc làm TPHCM tổ chức. Tuy nhiên theo khảo sát từ các trọng điểm giới thiệu việc làm và DN, lượt cần lao ứng tuyển vẫn chưa thể bắt nhịp cung - cầu (thiếu hụt khoảng 30% tổng nhu cầu tuyển dụng) dù điều kiện ứng tuyển không quá cao.

Câu chuyện đại diện công ty Kiềm Nghĩa san sớt cũng là khó khăn chung của DN khi tuyển người. Theo đó, đơn vị Kiềm Nghĩa phải đến từng trường đại học để đăng ký tuyển dụng nhưng vẫn không tuyển đủ số lượng, do một số sinh viên khá, giỏi năm cuối đã được các DN nước ngoài đặt hàng từ trước.

Có vài nơi, DN nước ngoài còn tương trợ cả kinh tổn phí bồi dưỡng và sẵn sàng nhận làm ngay sau khi ra trường. Cho nên, dù rất cần người cho các vị trí trưởng các phòng kế hoạch, kinh doanh, kỹ thuật, thí điểm… nhưng trong suốt 2 năm công ty vẫn không tìm được người hài lòng .

Không riêng gì Kiềm Nghĩa, ngay trong ngành CNTT, hàng năm số sinh viên ra trường lên đến hàng chục ngàn nhưng theo ông Nguyễn Phúc Hồng, Phó Giám đốc doanh nghiệp TMA, vài năm gần đây đơn vị có nhu cầu tuyển khoảng 200 người nhưng chưa khi nào tuyển đủ. Ngay cả việc, đơn vị mời gọi sinh viên đến tập sự cho quen việc trước khi ra trường nhưng cũng không cải thiện được tình hình.

Thực tại, việc thiếu hụt nguồn nhân lực đã tương tác rất nhiều đến hoạt động sinh sản tại DN. Nhiều trường hợp còn mất luôn cả thời cơ hợp tác kinh doanh. Ngay tại TPHCM, một tập đoàn CNTT Nhật Bản đã làm việc với lãnh đạo TP và ngỏ ý cần khoảng 200 cần lao trong lĩnh vực thiết kế bo mạch điện tử. Nhưng tìm mãi, rút cuộc TP phải chào thua vì chẳng thể đáp ứng được yêu cầu trên.

Thiếu vì yếu kỹ năng

DN không tuyển được nhân sự, viên chức mới ra trường không đáp ứng được đề xuất. Cứ thế, vòng lẩn quẩn đó tồn tại dài dài. Hậu quả tỷ lệ thất nghiệp ngày càng gia tăng. Trong đó, tỷ lệ thất nghiệp ở nhóm có trình độ cao đẳng cao gấp 4 lần, nhóm trình độ đại học trở lên cao gấp 3 lần tỷ lệ đối tượng thất nghiệp khác. Điểm đáng chú ý là trong nhóm thất nghiệp, số lao động bị thất nghiệp dài hạn từ 1 năm trở lên chiếm tỷ lệ rất cao, khoảng 44,2%.

Tỷ lệ này ở nhóm lao động có trình độ chuyên môn kỹ thuật cao hơn nhiều so với không có chuyên môn kỹ thuật: 54,4% so với 39,6%.

Ông nai lưng Anh Tuấn, Phó Giám đốc trọng điểm Dự báo Nhu cầu nhân lực và thông báo thị trường lao động TPHCM, nhận định vấn đề thất nghiệp đã được cảnh báo từ lâu khi nhu cầu tìm việc của lao động có bằng đại học chiếm 53,8%, so với nhu cầu tuyển dụng chỉ chiếm 14,9%. Trái lại, tỷ lệ lao động tìm việc có trình độ trung cấp chỉ chiếm 13,9% nhưng nhu cầu tuyển dụng của DN lại chiếm 25,7%.

Ngành du lịch là một ví dụ tiêu biểu. Với tốc độ tăng trưởng khách quốc tế 10%/năm và sự phát triển của du lịch nội địa trong những năm gần đây, du lịch Việt Nam đã có đóng góp đáng kể cho kinh tế-xã hội. Tuy nhiên, nguồn nhân lực lại là một điểm trừ.

Thực tại, có thể thấy kỹ năng ngoại ngữ kém là rào cản Anh chị trẻ gia nhập những ngành nghề có nguyên tố quốc tế. Không ít sinh viên du lịch của Việt Nam, dù tốt nghiệp nhưng ngoại ngữ chỉ ở mức lỗ mỗ. Lý do, trong quá trình huấn luyện, sinh viên không có nhiều thời cơ học ngoại ngữ, ngoại trừ một số ít trường tập huấn tiếng Anh tốt, còn lại phần đông sinh viên phải tự trang bị cho mình kỹ năng này.

Như vậy, có thể thấy chất lượng nguồn lao động của nước ta bây chừ đang còn rất thấp, trong khi nhu cầu sử dụng cần lao có tay nghề, chất lượng cao, có kỹ năng vững lại liên tục tăng. Điều này dẫn đến nguồn lao động dồi dào, nhu cầu việc làm lớn, nhưng các DN vẫn rơi vào tình trạng thiếu cần lao.

Xaluan.Com

Thứ Bảy, 11 tháng 4, 2015

Lloyds Banking Group dự định sa thải 9.000 nhân sự - Hrm Blog

Lloyds Banking Group dự định sa thải 9.000 nhân sự

Một trong những nhà băng lớn nhất nước Anh, Lloyds Banking Group dự kiến sẽ cắt giảm 9.000 việc làm và đóng cửa một số chi nhánh để tiện tặn chi phí.





Kế hoạch này được đưa ra trong bối cảnh ngày một có nhiều khách hàng chuyển qua sử dụng các dịch vụ nhà băng trực tuyến thay vì tới các điểm giao thiệp truyền thống.

Theo Hiệp hội ngân hàng Anh, lượng giao tế tại các chi nhánh của Lloyds đang sụt giảm 10% mỗi năm, trong khi đó hoạt động giao tế trực tuyến ngày một được các khách hàng yêu thích. Chính bởi thế, việc tồn tại các điểm giao tế truyền thống là không quá cần thiết.

Kể từ đợt khủng hoảng tài chính năm 2008 đến nay, Lloyds đã cắt giảm hơn 37.000 nhân lực. Hồi tháng 6 vừa qua, Lloyds cũng đã đóng cửa hơn 600 chi nhánh.

Vtv.Vn

Xây dựng thương hiệu nhà   tuyển dụng   để "tuyển mộ" tài năng

Hãy thử tưởng tượng ai đó nói với bạn “Tôi đang làm việc cho Google”. Chắc chắn, bạn sẽ thốt lên đầy kinh ngạc xen lẫn ngưỡng mộ “Ồ, thế à?” quả tình, ngày nay được làm việc với những tổ chức lớn như Google luôn là niềm kiêu hãnh của nhiều người. Yếu tố nào đã tạo nên sức quyến rũ của các nhà   tuyển dụng   hàng đầu như thế? Câu giải đáp nằm ở thương hiệu tuyển dụng   nhân sự   - nam châm thu hút tuấn kiệt về “đầu quân”.

Thương hiệu chung và thương hiệu riêng
   Tất cả các doanh nghiệp muốn tồn tại và phát triển bền vững đều cần có chiến lược xây dựng thương hiệu của mình. Ngoài ra một số nhà quản trị lại chỉ chú trọng đến việc xây dựng thương hiệu cho sản phẩm, mà xem nhẹ thương hiệu trong tuyển dụng nhân sự. Một số công ty khác thì chủ trương thương hiệu trong tuyển dụng nhân sự (thương hiệu riêng) nên độc lập với thương hiệu tổ chức (thương hiệu chung). Đây là những quan niệm sai lầm vì thương hiệu tuyển dụng là một thành phần quan yếu của thương hiệu doanh nghiệp vì nó truyền đạt thông tin về văn hóa, mục tiêu và giá trị của tổ chức để thu hút thiên tài về “đầu quân”.

Giá trị của thương hiệu trong tuyển dụng nhân sự
   Một thương hiệu mạnh trong tuyển dụng nhân sự mang lại nhiều lợi ích cho doanh nghiệp.Trước hết, thương hiệu này giúp doanh nghiệp tối ưu hóa quy trình tuyển dụng. Khi quảng bá rộng rãi những giá trị, mục đích và văn hóa của doanh nghiệp thì bạn sẽ giảm thiểu được lượng ứng viên không ăn nhập ứng tuyển vào công ty. Quan yếu hơn, nếu xây dựng được tiếng tăm như một trong những nhà tuyển dụng hàng đầu, bạn sẽ dễ dàng “chiêu mộ” và giữ chân nhân kiệt vì nhân kiệt luôn   kiếm tìm   nơi xứng đáng để “dụng võ”.

Vậy làm thế nào để xây dựng thương hiệu trong tuyển dụng nhân sự thực hiệu quả? Dưới đây là một số điều bạn cần chú ý:

Định vị hào kiệt thật rõ ràng
   Bạn cần xác định được nhân tài mình muốn thu hút là ai. Hãy tìm hiểu những điều mà họ quan tâm, những mục tiêu, ước mong và giá trị mà họ đang kiếm tìm ở một nhà phỏng vấn.

Xác định giá trị có thể mang lại cho người lao động
   Người cần lao thường chỉ muốn làm việc cho những công ty có khả năng mang lại cho họ giá trị vật chất hoặc ý thức nào đó. Trong đó, giá trị tinh thần như niềm kiêu hãnh là quan yếu nhất. Chả hạn, Google truyền đạt thông điệp rằng mọi viên chức của họ sẽ được tạo điều kiện tối đa để góp sức vào “đại nghiệp” giúp mọi người trên toàn thế giới truy nã xuất thông tin miễn phí tổn. Vì vậy, bạn cần xác định những giá trị quan yếu nhất mà đơn vị có thể mang lại cho người lao động. Đây chính là “chất liệu” giúp bạn tạo ra những thông điệp marketing đắt giá để thu hút thiên tài.

Hoạch định chiến lược xây dựng thương hiệu đúng đắn
   Tất cả các thương hiệu mạnh trong tuyển dụng nhân sự hiện thời đều được xây dựng trong nhiều năm. Muốn hoạch định được chiến lược đúng đắn, nhà quản trị cần có tầm nhìn xa về đường hướng phát triển nguồn nhân công của tổ chức, kết nối được giá trị của thương hiệu tuyển dụng với thương hiệu sản phẩm và thương hiệu công ty. Lưu ý là bạn cần đặt ra mục tiêu rõ ràng cho từng thời kỳ để việc hoạch định chiến lược thương hiệu thành công.

Khẩn hoang tối đa sức mạnh của dụng cụ truyền thông
   Với chiến lược xây dựng thương hiệu tuyển dụng trong tay, bạn cần chọn phương tiện truyền thông phù hợp và hiệu quả. Mỗi nhà quản trị có sự lựa chọn khác nhau, nhưng theo các chuyên gia thì bạn nên dùng trang web tuyển dụng của doanh nghiệp như “khí giới” chính. Trang web này sẽ truyền tải thông điệp đến ứng cử viên rằng tổ chức là nơi ăn nhập để họ tạo dựng sự nghiệp. Bạn còn có thể dùng các công cụ hỗ trợ khác như bài viết PR trực tuyến (online) hoặc ngoại tuyến (offline) về công ty hoặc video và hình ảnh giới thiệu về những giá trị và văn hóa của đơn vị.

Đo lường hiệu quả của việc xây dựng thương hiệu
   Trong quá trình xây dựng thương hiệu, bạn cần thường xuyên theo dõi mức độ thành công mình đã đạt được bằng nhiều cách khác nhau. Chả hạn, hãy thử đề cập về tổ chức của bạn tại một buổi tiệc, và để ý xem có bao nhiều người biết và ấn tượng chung của họ về tổ chức là bị động hay hăng hái. Một cách khác là dựa trên chất lượng giấy tờ ứng cử viên mà bạn nhận được khi đăng thông báo tuyển dụng. Thậm chí, bạn còn có thể kiểm tra danh tiếng của doanh nghiệp dựa trên số nhân viên của mình mà các đối thủ săn đón.
   Làm cách nào để tuyển dụng và giữ chân hào kiệt luôn là một vấn đề khiến các nhà quản trị công ty “nhức óc”. Ngoài ra, nếu có được một thương hiệu mạnh trong tuyển dụng nhân sự thì mọi chuyện sẽ dễ dàng hơn rất nhiều. Thành ra, bạn hãy dành sự đầu tư tương thích cho việc xây dựng thương hiệu này. Rất có thể một ngày nào đó, viên chức tổ chức của bạn cũng sẽ tự hào về nơi họ làm việc giống như Google bây chừ vậy!

(Nguồn Vietnamworks.Vn)

Quy trình kiểm tra công việc đưa ra chỉ tiêu cho các phòng ban

Quy trình kiểm tra công việc đưa ra chỉ tiêu cho các bộ phận

Quy trình đánh giá công tác đưa ra chỉ tiêu cho các phòng ban: marketing, kinh doanh, online marketing, kế toán,   nhân sự   , săn sóc khách hàng... Hiện tại khá nhiều đơn vị chỉ áp 1 mức là chỉ tiêu theo doanh số hay khách hàng mới cũ mà nhân viên đang đảm nhận, điều này đúng với kinh doanh nhưng liệu marketing, và nhân sự, kế toán có chuẩn xác không ?

   Một doanh nghiệp muốn giữ chân viên chức lâu dài, mọi người làm việc theo hiệu quả công tác phê chuẩn các chỉ tiêu hàng tháng của mình thì tổ chức nên phân tách công việc đưa ra bảng thể hiện công tác và tiêu chuẩn công việc, từ 02 bảng trên sẽ có được bảng kết quả công tác hay là chỉ tiêu theo công việc, từ đó mà có mức đánh giá và áp chỉ tiêu đúng theo công tác mà nhân viên đó đảm nhiệm. Sau đây là các quy trình đánh giá và áp chỉ tiêu cho viên chức, bộ phận tổ chức:

Bước 01: xem xét lại công việc ngày nay của phòng ban, viên chức đang cáng đáng, dựa vào bảng biểu đạt công tác sẽ đưa ra được kết quả chung cục của bộ phận đó là gì? và lợi ích mang lại công ty? từ đó đưa ra chỉ tiêu của cá nhân, phòng ban.
Bước 02: Rà soát lại năng lực làm việc của người tìm việc ngày nay với chỉ tiêu mà đơn vị mong muốn
chú ý: áp cao hơn 1 chút so với năng lực hiện tại của ứng cử viên, nhằm gây áp lực và đốc thúc nhân viên thể hiện hết mình.
Bước 03: coi xét năng suất làm việc của người tìm việc so với những bộ phận, nhân viên còn lại của doanh nghiệp. Có 3 trường hợp:
   - Năng lực của người tìm việc cao hơn nhân viên ngày nay thì áp mức thưởng cao hơn gấp 2 lần so với viên chức ngày nay nhằm khích lệ cả hệ thống làm việc.
   - Nếu năng lực của ứng cử viên bằng so với viên chức hiện tại => trả thưởng theo quy định ngày nay của viên chức tổ chức.
   - Nếu năng lực của ứng viên thấp hơn so với mặt bằng chung của doanh nghiệp => tiến hành mức thưởng theo % đạt được và tìm người thay thế.
Bước 04: Ban hành chính sách thưởng phải công bố rộng toàn bộ phận, phòng ban liên quan và có duyệt y của giám đốc.

Sau đây là một vài chỉ tiêu của các phòng ban thông thường trong các đơn vị bây chừ, mong giúp ích được phần nào cho Anh chị em khi kiểm tra nhân viên đưa ra chỉ tiêu:
- Chỉ tiêu phòng ban kinh doanh:
   +  Doanh số.
   +  Khách hàng đang làm việc.
   +  Khách hàng mới.
   +  Độ phủ sản phẩm.
- Chỉ tiêu bộ phận marketing:
   + Chương trình marketing thực hành trong tháng, quý, năm.
   + % Doanh số tăng lên sau khi thực hiện chương trình.
   + % Thị phần tổ chức nắm giữ.
   + Mở rộng kênh phân phối.
   + Nghiên cứu và phát triển sản phẩm mới.
- Chỉ tiêu phòng ban online marketing:
   + Số lượng từ khóa nằm trên google.
   + Số lượng người tầm nã cập vào website hàng ngày.
   + Số page view.
   + Doanh số bán hàng online (dành cho nhân viên bán hàng online)
- Chỉ tiêu bộ phận thiết kế:
   + Số lượng sản phẩm hoàn thành.
   + Chương trình marketing, doanh số mang lại được từ các banner lăng xê quyến rũ.
   + Các tương trợ tương tác marketing, R& D
- Chỉ tiêu bộ phận Sale Admin:
   + Doanh số áp xuống.
   + Số lượng đơn hàng đã hoàn tất theo %
   + Tần suất làm việc: báo cáo hàng hóa, tổng hợp doang số, tổng hợp nợ...

Theo P5Media

Vì sao lãnh đạo hiệu quả lại là vấn đề quan yếu?

Hiện tại, việc nói rằng sự Lãnh đạo rất quan trọng đã trở thành điều hiển nhiên. Tất cả chúng ta đều biết và nhiều người từng chứng kiến việc thiếu sự lãnh đạo đã đem lại những tổn thất gì cho tổ chức. Do vậy chẳng có gì đáng ngạc nhiên khi "Ngành công nghiệp Lãnh đạo" không ngừng đưa ra những mô hình, những từ nghe rất kêu và thậm chí cả "những cách suy nghĩ mới". Thế nhưng nhiều "sản phẩm" theo kiểu này thuần túy chỉ mang tính giai thoại, khái quát chung chung, và không dựa trên những nghiên cứu thực tại.

Mặt khác, cộng đồng khoa học cũng đã ban bố rất nhiều nghiên cứu xoay loanh quanh Thuật lãnh đạo nhưng chung ta lại chẳng thể chuyển thành vận dụng thực tiễn trong công việc. Điều mà chúng ta cần không phải là thêm một lý luận minh chứng về tầm quan yếu của sự lãnh đạo, mà chính là quá trình làm sao chúng ta có thể bắt đầu xây dựng đội ngũ lãnh đạo của chính chúng ta dựa theo những lý thuyết này.

  Để vượt qua những chướng ngại đó, bài viết này tổng kết lại những kết quả thật tiễn tìm được về sự lãnh đạo dựa trên dữ liệu từ thực tại của các tổ chức, tức là dữ liệu từ các khảo sát của hơn 400 doanh nghiệp và hơn 4 triệu người giải đáp hàng năm cũng như từ các nghiên cứu về người sử dụng lao động và lý thuyết có liên quan.

Sơ lược về các kết quả tìm được từ khảo sát và Nghiên cứu của Towers Watson, ông đã phá hoang các dữu liệu trên để tìm câu giải đáp cho các câu hỏi sau đây:

  - Điều gì là đặc trưng cho sự lãnh đạo trong các công ty có thành tích cao?

 Quan sát trước tiên có được từ nghiên cứu này là khi các tổ chức có thành tích cao đo lường mức thúc đẩy của lãnh đạo của họ, có 5 mục mà họ thường xuyên dùng nhất. Đó cũng là những mục mà họ có điểm số cao hơn các đơn vị có thành tích thấp.
Quan sát thứ hai là môi trường kinh doanh thay đổi đòi hỏi phải có những năng lực mới để thích ứng, ngoài bộ những năng lực cũ truyền thống. Những nhóm năng lực mới là Linh hoạt về Chiến lược , tinh thông về công nghệ

  - Điều gì là đặc trưng cho sự lãnh đạo trong các đơn vị đã đổi thay thành công?

Trước hết, nói về những tính nét đặ trưng cho môi trường đổi thay hiệu quả, thì 3 nhân tố tương tác đến Lãnh đạo và có chỉ số delta lớn nhất là: Phản ứng nhanh, Ra quyết định và Tuân thủ theo các Giá trị
Khả năng của các nhà lãnh đạo có thể tạo ra ý thức đổi mới được xem là mạnh hơn trong các doanh nghiệp cải cách. Khái quát, có mối quan hệ chặt chẽ giữa các doanh nghiệp cách tân và các tổ chức đã thanh đổi thành công.

- Chiến lược của công ty thúc đẩy gì lên cách hành xử lãnh đạo?

Trong khuôn khổ nghiên cứu của mình, Towers Watson đã phân nhóm các công ty thành tích cao theo nhứng ưu điểm chiến lược của chính họ, ngiên cứu đã phát hiện được là cách hành xử của Lãnh đạo cần phải chuyên biệt cho từng đơn vị, có thể đo được và có ý nghĩa. Hơn nữa các động cơ thúc đẩy cho ngành công nghiệp phát triển phải được diễn dịch thành những khả năng cần có của các Lãnh đạo

- Điều gì khiến các lãnh đạo được đánh giá là hiệu quả trong nhận thức của nhân viên?

Sự hiệu quả của các lãnh đạo cao cấp được ảnh hưởng bởi các đăc tính tập trung vàon hân viên và song song vào việc đem lại sự hướng dẫn.

Từ những kết quả trên, các tổ chức có thể tiến hành những bước sau trong việc cải thiện tính hiệu quả của Sự lãnh đạo:
 - Làm rõ ưu tiên chiến lược kinh doanh của tổ chức mình
 - Dựa trên ưu tiên chiến lược xác định xem đâu là những yếu tố văn hóa mà tổ chức cần có để hỗ trợ cho việc thực thi chiếnl ược này;
 - Cũng dựa trên ưu tiên chiến lược này, phối hợp cùng văn hóa công ty, các nguyên tố khác như Tầm nhìn, sứ mệnh, các giá trị mấu chốt, và lưu ý đến những tính nét chung về lãnh đạo trong các doanh nghiệp có thành tích cao đã nêu trên, nhằm xác định xem những năng lực nào là quan yếu và chính yếu mà các lãnh đạo trong doanh nghiệp mình cần có
 - thực hành xây dựng các năng lực này trong hàng ngũ lãnh đạo công ty qua việc: Truyền thông, đào tạo và đánh giá

 Tóm lại, chúng ta có thể thấy rằng sự lãnh đạo đóng vai trò quan yếu trong việc thực thi Chiến lược kinh doanh của đơn vị. Khi những nhà Lãnh đao liên kết theo chiến lược kinh doanh, làm hco văn hóa doanh nghiệp sống động qua chính các hành xử của mihf, và gia tăng cam kết của viên chức duyệt y các hành động của mình, họ sẽ có tác động tích cực lên thành công chung của tổ chức

Kỷ Yếu Ngày nhân sự Việt Nam - Vietnam HRDay
Đinh Việt Lâm
Chuyên viên tham mưu, bộ phận Đãi ngộ và Quản lý nhân kiệt Towers Watson việt Nam

Thứ Sáu, 10 tháng 4, 2015

4 kĩ năng làm việc thiết yếu bạn không được dạy trong trường đại học - Hrm Blog

4 kĩ năng làm việc thiết yếu bạn không được dạy trong trường đại học

Đàm phán hiệu quả

Kĩ năng thương lượng và đàm phán luôn luôn có giá trị của nó và phục vụ bạn trong cả công việc lẫn cuộc sống cá nhân. Ngoại giả, những kĩ năng này không phải lúc nào cũng được dạy trên đại học – ngay cả trong những khóa học kinh doanh.

Trong kinh doanh, bạn phải thương thảo với nhà cung cấp về tỉ lệ phần trăm, đàm phán với khách hàng về giá, đàm đạo với nhân viên về lương và phúc lợi, thương thảo với nhà phỏng vấn về việc thăng chức. Bạn sẽ khó mà tìm thấy được những người có quyền lực trong công việc mà không nắm trong tay nghệ thuật thương thuyết.

Khả năng viết hàm súc

Nhiều người tham dự vào những khóa học viết trong kinh doanh và học cách viết theo phong chuyên nghiệp và  trang trọng. Đây là một kĩ năng xuất dung nhan sẽ tương trợ bạn đắc lực trong công tác. Một kĩ năng mà thường bỏ quên trong các khóa học nhưng lại giúp thể hiện ý kiến của bạn nhanh chóng và hiệu quả.

Trong trường học, thường chỉ đề cập đến việc dài dòng hoặc độ dài của từng bài luận. Một chuyên gia thường khá bận rộn và không có nhiều thời kì để đọc cả bài thuyết trình hay dự án dài dằng dặc của bạn, cho nên hãy rút gọn lại ý tưởng của bạn xuống những thông báo quan yếu nhất trước khi diễn đạt chúng trước sếp của bạn.

Xây dựng màng lưới mối quan hệ một cách có chiến lược

Nhiều người cảm thấy dễ dàng kết bạn mới trong đại học và phát triển mối quan hệ xã hội mà không mất nhiều công sức. Bạn đã học được cách tương tác lên thành công của sự nghiệp hoặc đơn giản là được nhiều người biết đến.

Froswa Booker Drew, một tác giả và chuyên gia xây dựng mối quan hệ, cho biết cô đã không học được cách xây dựng quan hệ cho đến khi rời đại học.  Cô đã rất năng động tham gia vào những hoạt động ngoại khóa tại trường và xây dựng được mối quan hệ lớn. Bên cạnh đó, cô đã không nắm được sức mạnh của việc xây dựng mối quan hệ có thể giúp cô tìm được việc hoặc cho phát triển nghề nghiệp. Cô chia sẻ “ Thật quan trọng để tìm ra những người thầy trong lĩnh vực bạn quan tâm và duy trì mối quan hệ này”. Nhiều người muốn giúp bạn nhưng không lại không thể khi bạn cần một điều gì đó. Duy trì mối quan hệ vì giá trị của họ và họ có thể tương trợ về nghề nghiệp khi cần.

Liên quan nhún nhường nhịn nhường

Bỏ qua những cảm giác khó chịu và học cách làm việc thực lòng trong khi biểu thị sự kiểm tra cho người khác sẽ giúp sự nghiệp của bạn thăng hoa. Giáo sư Scott C.Hammond dạy về quản trị của đại học Utah State cho biết “Khả năng biểu lộ sự đánh giá thực bụng và đề xuất sự dung tha có thể giúp bạn tránh những bãi lầy mâu thuẫn và cải thiện mối quan hệ. Nhưng hầu hết chúng ta lại nghĩ rằng việc tán dương ai đó làm chúng ta không được tín nhiệm còn việc đề cập đến sự dung thứ tức chúng ta đang mắc lỗi.”

Nguồn: viec lam online

Viettel đã chữa bệnh “cồng kềnh” như thế nào?

giám đốc điều hành Viettel Nguyễn Mạnh Hùng: “Chúng tôi nhận ra bộ máy đã bắt đầu kềnh càng và ậm ạch”...

Bộ máy nhân lực của Tập đoàn Viễn thông Quân đội (Viettel) đã bắt đầu trở thành ì ạch và kềnh càng, như chính nhìn nhận của giám đốc điều hành Nguyễn Mạnh Hùng.



Phải chăng, Viettel, một trong rất ít tập đoàn nhà nước làm ăn hiệu quả trợ thì gian qua, cũng sẽ không thoát khỏi tình trạng thường thấy của công ty nhà nước?

Trước câu hỏi trên của VnEconomy, ông Nguyễn Mạnh Hùng nói:

- Một công ty khi to ra sẽ khó tránh được kềnh càng, ậm ạch, bởi khi đó phần đông người quản lý có xu thế sinh ra nhiều quy định, quy trình nhằm tăng cường quản lý, thế nhưng bản chất lại làm cho bộ máy nặng ra, chậm đi.

Công ty khi to cũng khó thiết kế cho từng con người, từng phòng ban được rành mạch. Hoặc các phòng ban không rõ ràng, chồng lấn lên nhau. To ra sẽ có xu thế tuyển người nhưng không khe khắt, thành ra bộ máy cứ tăng dần và cồng kềnh.

Đo cách khác để làm kiểu khác

Cuối năm ngoái ông san sẻ, bộ máy quản lý, nhân sự của Viettel giờ cũng đang ậm ạch và công kềnh, giờ thì sao rồi?

Chúng tôi nhận ra bộ máy đã khởi đầu cồng kềnh và ậm ạch, và năm mới rồi, Viettel đã giải câu chuyện đó, trước tiên là giảm bộ máy cơ quan.

Trong một tổ chức, bộ máy cơ quan nếu so với một cơ thể người thì nó là cái bụng. Cái bụng mà to, mà béo thì thường là người có bệnh. Các tổ chức có vấn đề thì bao giờ cái bụng cũng to.

Viettel khi nhìn lại cũng to thật. Có lúc bộ máy quản lý cấp trung lên tới gần 1.000 người. Đây là bộ máy trung chuyển mệnh lệnh từ trên xuống và ý kiến từ dưới đi lên.

Bởi thế, nếu bộ máy này càng to thì càng chậm, làm cho hệ thống không thông tỏ. Nó cũng là bộ máy sinh ra các quy trình, quy chế, thành thử khi to ra sẽ có xu thế sinh ra rất nhiều thủ tục và làm doanh nghiệp kém linh hoạt đi.

Viettel mới rồi làm hai đợt tinh giản bộ máy quản lý cấp trung, và hết đợt thứ hai thì bộ máy này sẽ giảm hơn một nửa, chỉ còn trên 400 người.

Cùng với việc giảm nhân sự, chúng tôi cũng định nghĩa lại việc của cơ quan là gì và thiết kế lại công ty, để tập kết vào các công việc như tư vấn, định hướng, xây dựng cơ chế, chính sách, kiểm tra, đào tạo. Dựa trên thiết kế đó mới rà soát, phân bổ lại nhân sự.

Rất nhiều người ở trên tập đoàn có kinh nghiệm khi xuống các doanh nghiệp cấp dưới thì mang lại hiệu quả tốt hơn, do họ vừa có lý luận, vừa có tầm nhìn, lại có thực tiễn nên đề xuất chính xác hơn, hiệu quả hơn.

Thứ nữa, chúng tôi bắt buộc mình phải đo hiệu suất cần lao và hàng năm đều đặt ra mục tiêu hiệu suất lao động phải tăng từ 15% trở lên. Nếu đo hiệu quả bằng doanh thu thì chưa hẳn đã tốt. Chẳng hạn, bán một cái iPhone khoảng 20 triệu đồng nhưng bản tính thì giá trị mang lại rất nhỏ. Thành ra nếu đo bằng doanh thu thì hiệu quả sẽ rất cao.

Ngoại giả, năng suất của Viettel đo bằng doanh thu trừ chi phí trước lương. Đó mới là giá trị thực thụ do mình tạo thành. Phép đo này chuẩn xác hơn so với đo bằng doanh thu khá nhiều. Nếu năng suất không tăng thì bắt buộc phải giảm người. Và quy định về năng suất lao động như thế thì bộ máy sẽ bớt kềnh càng, bớt ì ạch đi.

Ngoại giả, trong quá trình điều tiết, thiết kế lại để tổ chức hoạt động hiệu quả hơn, Viettel đã có phát hiện khá quan trọng là tính giá trị tăng thêm.

Cụ thể là gì vậy?

ví dụ như năm ngoái Viettel tạo ra 1.000 tỷ đồng, nếu năm nay doanh thu vẫn là 1.000 tỷ đồng, có vẻ to lắm và vẫn cảm thấy ổn. Nhưng chúng tôi lại không nghĩ vậy, mà với Viettel, như vậy là năm nay anh chỉ tạo thành 0 đồng.

Còn nếu tạo thêm 10 tỷ - tức là 1.010 tỷ đồng - thì giá trị tăng thêm của anh mới là 1%; nếu tạo ra 1.100 tỷ đồng, giá trị tăng thêm của anh là 10%. Nếu đo như vậy, tác động tâm lý sẽ khác.

Nếu kế hoạch năm nay là 1.100 tỷ đồng và thực hành đạt 1.050 tỷ đồng thì theo cách cũ, chúng ta đạt 95,45% kế hoạch; còn theo cách mới chúng ta chỉ đạt 50/100, tức 50% kế hoạch.

Khi chúng ta đo bằng giá trị tăng thêm thì bộ máy bắt buộc phải hiệu quả hơn, vì nó là cái mới, phải nghĩ ra cái mới, phải có sản phẩm mới, thị trường mới, khách hàng mới, và đó mới thực sự là sự sáng tạo mới. Khi tạo nên giá trị mới thì bộ máy phải lao động kiểu khác, phải vắt óc ra mà nghĩ.

Và như thế tự nó sẽ điều chỉnh, để trở nên không ậm ạch.

Thời kì qua, Viettel “dính” phải một số vụ lùm xùm, tạo thành những bức xúc khăng khăng cho một số người dùng, như trong đăng ký dịch vụ, trừ tiền tài khoản, khuyến mại… Liệu đây có phải là thể hiện của bộ máy cồng kềnh và ì ạch không?

Đúng là Viettel vừa rồi bị một số việc này việc kia như: lăng xê chưa đủ độ sáng tỏ, khuyến mại mập mờ… Khi thị trường cạnh tranh thì mọi người phải cố gắng tăng doanh thu, cũng có lúc làm quá trớn và gây tác động tới một số khách hàng.

Nhưng vấn đề nằm ở chỗ, đó không phải là môn phái Viettel, không phải là văn hóa Viettel, không phải là sự chỉ đạo từ lãnh đạo tập đoàn.

Khi nhìn thấy có những dấu hiệu như thế thì Viettel đã chỉnh đốn quyết liệt trong nội bộ, không chỉ tại Viettel Telecom mà là toàn bộ tập đoàn. Tôi đề nghị, luôn phải đặt quyền lợi khách hàng lên trước, vì khách hàng yêu quý mình sẽ trung thành với mình.

Còn lừa dối khách hàng dù chỉ một lần thì họ sẽ nhận ra và họ không thiếu những chọn lựa khác. Chưa kể tới mối hiểm nguy của việc truyền miệng những thông báo không tốt về Viettel sẽ còn nguy hiểm hơn.

Như vậy, lợi thì ngắn hại thì dài. Bởi vậy, mới đây tôi cho rà soát lại tất cả các chương trình khuyến mại, cách khuyến mại, các sản phẩm, tất cả những gì không phù hợp và có thể thúc đẩy tới khách hàng là bỏ tất.

Tôi cũng đề xuất các doanh nghiệp thành lập các kênh thông tin để tiếp nhận ý kiến của khách hàng, trao thưởng cho những ý kiến xác đáng, giúp Viettel sửa lỗi trong chính sách, quy định, bộ máy của mình.

Theo chủ quan của ông, với sự thay đổi trên, liệu có thể nói Viettel đã nhất thời hết kềnh càng chưa?

Mãi mãi không bao giờ hết cồng kềnh được. Bao giờ một đơn vị cũng có những ậm ạch riêng, cồng kềnh riêng, diệt hết chỗ này thì nó lại sinh ra chỗ kia. Nó như bệnh muôn thủa của bất kỳ doanh nghiệp nào.

Chỉ có điều mình nhìn thấy thì mình lại điều chỉnh. Nhưng, sự ậm ạch của bộ máy đôi khi cũng có cái hay của nó. Vì nó giữ cho bộ máy ổn định nhất quyết. Đương nhiên sự ì ạch đó phải nằm ở mức chấp thuận được.

“Căn bệnh của số lớn”

Một thực tiễn, bấy lâu, người ta vẫn thường cho rằng, khối công ty quốc gia, đặc biệt là các tập đoàn, tổng doanh nghiệp thường có bộ máy quản lý kềnh càng, kém hiệu quả?

tổ chức nào cũng thế. Kể cả đơn vị tư nhân hay những tổ chức hàng đầu như Samsung, Nokia thì họ cũng kềnh càng không kém gì mình, thậm chí còn hơn mình.

Vì thế mới có những đợt thải hồi vài chục ngàn viên chức mà chúng ta vẫn thấy báo chí đưa tin. Với Viettel, chúng tôi luôn tự chủ động để thay đổi nên không phải đối mặt với việc phải cắt giảm nhân sự. Viettel tăng hiệu suất cần lao không phải bằng cách thải hồi nhân viên mà bằng cách tạo nên công tác mới.

Chính cho nên đây là căn bệnh của số lớn, chứ không phải của riêng doanh nghiệp quốc gia.

Trên thực tại, một đơn vị lớn có những cách vận hành tương đối giống nhau. Kể cả những doanh nghiệp tư nhân chưa lớn, cỡ 1.000 người, thì vẫn có những câu chuyện ậm ạch. Ông chủ công ty tư nhân 1.000 người cũng làm sao nhìn thấy mặt viên chức cấp dưới cùng và cũng không thể nghĩ ra cách quản lý để cho viên chức thứ 1.000 làm hết công suất.

Bộ máy do người lãnh đạo thiết kế ra, không có quy định bắt buộc nào. Các đơn vị to ra thì hiển nhiên sẽ sinh ra quan liêu, sinh ra ậm ạch, đó là căn bệnh cố hữu thì phải tìm cách chữa nó. Anh là người thiết kế ra nó, anh hoàn toàn có quyền đổi thay, điều chỉnh.

Nhưng người ta ít nhìn doanh nghiệp tư nhân như vậy?

Vì nhiều lúc mình nhìn đơn vị quốc gia cũng hơi thành kiến. Hiện thời cứ lấy ra một công ty quốc gia, rồi xuống tận nơi xem, mổ xẻ, rồi mang “ông” tư nhân ra so sánh xem sao. Nhưng tôi nghĩ chắc mọi người cũng chưa làm việc đó. Vì vậy, mà cả xã hội nghĩ cứ công ty quốc gia là kém hiệu quả.

Hay có phải xuất phát từ một số đơn vị “bị để ý nhiều”, kiểu như EVN?

Cũng không đánh giá EVN như thế được vì có tổ chức nào để so sánh đâu, phải có tổ chức khác để so sánh thì mới biết chứ. Ví dụ như ngoài Viettel thì còn có Vietnammobile, Saigontel, hay Beeline trước đây…, là các công ty hợp tác quốc tế, tổ chức có vốn nước ngoài, nhưng xét về mặt hiệu quả thì chênh nhau đến ngàn lần.

Chúng tôi hiện lợi nhuận trên vốn chủ sở hữu là hơn 40%. Lợi nhuận trên doanh thu là 20%, trong khi các doanh nghiệp kia thì đang lỗ.

Muốn mổ xẻ thì phải mang con số ra, cố nhiên là với chỗ nào có cạnh tranh. Còn những chỗ không cạnh tranh thì không biết so sánh thế nào.

Như điện lực hiện giờ lợi nhuận chưa cao hoặc có những năm bị lỗ là do quốc gia định giá. Nếu quốc gia định giá thấp, thậm chí dưới giá thành thì lỗ là đúng. Khi có sự quản lý về giá thì rất khó kiểm tra doanh nghiệp ấy hiệu quả hay không hiệu quả. Nếu như vứt ra thị trường thì mới kiểm tra được ai hiệu quả. Đánh giá công ty độc quyền là rất khó.

Sự ậm ạch, kềnh càng và hạn chế phát triển của khối tổ chức nhà nước còn được nhìn nhận vì có quá nhiều “suất ngoại giao”? Ở Viettel thì sao, nếu ông có thể chia sẻ?

đơn vị nhà nước hay doanh nghiệp tư nhân cũng là một công ty trong một xã hội, cũng có quan hệ xã hội. Có khi công ty tư nhân còn nhiều quan hệ hơn. Nó là một hiện tượng xã hội.

Thứ hai, trong một công ty có rất nhiều việc, có những việc đòi hỏi anh học ở Harvard nhưng cũng có những việc chỉ cần cần lao phổ quát như pha trà, photocopy. Vấn đề là anh bố trí như thế nào, toàn Harvard thì tổ chức cũng không hoạt động được, mà toàn lao động phổ quát thì tổ chức đó chết.

Bởi vậy, vấn đề là chúng ta phải đẩy các tổ chức quốc gia phải sáng tạo, phải tạo ra giá trị, phải cạnh tranh, đặt ra cho nó những mục đích và ngày càng cao hơn về các chỉ số lợi nhuận trên vốn, trên doanh thu, trên năng suất lao động.

Nhưng cũng có một vấn đề được quan tâm là, một số lãnh đạo doanh nghiệp lại cho rằng, mức lương hiện nay đối với lãnh đạo là thấp, thậm chí không đủ để giữ người tài hoặc kích thích năng lực sáng tạo, phát triển. Trong khi đó, rất đông ý kiến nhìn nhận, lãnh đạo không ít các tập đoàn, tổng tổ chức được trả lương cao so với hiệu quả mang lại. Ông nhìn nhận hai luồng quan điểm đó như thế nào?

Dễ làm lắm. Giờ chỉ cần làm một nghiên cứu, như ngành viễn thông, thì xem quỹ lương chiếm khoảng bao lăm phần trăm doanh thu hoặc doanh thu trừ tổn phí. Nghiên cứu một đôi nước gần giống mình thì sẽ tìm ra con số đó.

Trong quỹ đó thì lương của tổng giám đốc hay ban tổng giám đốc chiếm bao nhiêu phần trăm doanh thu hoặc doanh thu trừ phí. Hoặc cũng có thể khảo sát được mức lương tuyệt đối, trung bình của các tổ chức viễn thông lớn, coi con số đó là thị trường và mang ra để ứng dụng, so xem cao hay thấp.

Còn không có tiêu chuẩn thì chẳng biết cao hay thấp.

Theo tôi, lương là một cơ chế thị trường vì khi cạnh tranh nhau phải thu hút nguồn lực và nó tự hình thành mức lương cho ngành ấy. Quốc gia hoàn toàn có thể có những nghiên cứu đó, tìm ra mức lương nhàng nhàng của ngành và cho tổ chức quốc gia hưởng mức đó, cũng không nhất mực phải cho hưởng mức cao nhất, dĩ nhiên là doanh nghiệp quốc gia phải có lãi.

Vneconomy.Vn

Thứ Tư, 8 tháng 4, 2015

Bí quyết dùng người của các tập đoàn nổi danh - HR

Bí quyết dùng người của các tập đoàn nức tiếng

Để có được những ý tưởng kinh doanh sáng tạo, các doanh nghiệp phải dồn tâm sức vào việc đánh giá và tẩm bổ người tài một cách thật khôn khéo.

Tại cuộc triển lãm các phát minh mới của Apple tháng 9 năm ngoái, Steve Jobs quyết đoán rằng “vững chắc, họ đã quá lời về tình trạng sức khoẻ bây giờ của tôi”. Jobs phát biểu vậy hòng dập tắt mọi lời đồn thổi rằng tình trạng sức khỏe của ông đang có những diễn biến xấu. Và rồi, không ai ngờ rằng chỉ một tháng sau, Steve phải trải qua cơn đau tim nặng. Giờ đây, ban quản trị của Apple đứng trước thách thức tìm người tiếp quản phần việc nặng nề của ông.

Bí quyết thành công của các tập đoàn lớn nằm ở việc tìm, bồi dưỡng và đãi ngộ nhân tài phục vụ cho quá trình sáng tạo.

Thế nhưng, khi tập đoàn cần tới những phát kiến mới mẻ thì chẳng mấy vị lãnh đạo có khả năng gánh vác và chấp nhận những thay đổi mang tính cách mệnh, chứng minh mình có thể tiếp tục những thành quả của Steve. Trong suốt thời kì Steve Jobs làm việc tại Apple, các dòng sản phẩm mới của tập đoàn như Mac, iPod, iTunes và iPhone 3G đã không chỉ thay đổi cách nghĩ mà còn đổi thay cả lối sống của rất nhiều người.

Trước tình hình đó, giới đầu tư cũng như ban lãnh đạo của Apple hơn ai hết đều nhận thấy đề nghị thực sự thúc bách đó là làm sao có thể cho ra đời những thế hệ công nghệ mang tính tất yếu cho mai sau?

Phát hiện và tẩm bổ những nhân tài có năng lực sáng tạo vượt trội là mối bận lòng hàng đầu không chỉ với riêng Apple mà còn là vấn đề chung của mọi tổ chức theo đuổi định hướng phát triển. Kết quả phỏng vấn của doanh nghiệp điều hành dụng cụ   tìm kiếm   Spencer Stuart cho thấy, tới hơn 2/3 lãnh đạo của các tập đoàn hàng đầu thế giới nằm trong danh sách khách hàng của đơn vị đều xác nhận rằng các phát minh sáng tạo chính là nền móng cơ bản mang tính sống còn đối với sự tồn tại lâu dài của đơn vị.

Bản tính, các nhà lãnh đạo thường tụ hợp đi sâu phân tích hai góc cạnh: thứ nhất chúng ta có thể làm gì để duy trì hoạt động sáng tạo, thứ hai chúng ta đã có kế hoạch bồi bổ đội ngũ lãnh đạo trẻ có hoài bão theo đuổi mục tiêu này hay chưa?

Vấn đề cốt tử vẫn nằm ở chỗ chúng ta thiếu người tài. Con số những người có năng lực sáng tạo đích thực chỉ đếm được trên đầu ngón tay. Bình thường, một đơn vị chỉ có từ 5-10% số lãnh đạo trẻ ở một thời khắc nhất thiết tụ họp đầy đủ các tố chất trở nên những nhà kiến tạo. (Thậm chí, Giám đốc Marketing của MillerCoors - Andrew England - cho rằng con số này chỉ xấp xỉ 1%). Tìm được thiên tài đã khó, làm sao tẩm bổ và đãi ngộ người tài còn khó gấp bội.

Để nhóm lên ngọn lửa sáng tạo trong lòng doanh nghiệp của mình, các tổ chức đều phải hoàn tất những nhiệm vụ hết nặng nài. Trong vòng 5 năm trở lại đây, sau khi nghiên cứu chiến lược sáng tạo của 25 tổ chức thuộc mọi ngành nghề tại nhiều nhà nước, chúng tôi đã rút ra một kết luận đáng buồn đó là các đơn vị đều thiếu sáng kiến một cách trầm trọng bởi họ thuần tuý chỉ   đào tạo   ra những nhà lãnh đạo chuyên đi rập khuôn và vay mượn ý tưởng thay vì sáng tạo ra cái mới.

Chính thành thử, một lẽ hiển nhiên, những người có khả năng được cất nhắc vào vị trí quản lý đều thấy được đòi hỏi phải “noi gương” những lãnh đạo đương thứ. Thậm chí, ngay cả những tuấn kiệt trẻ mới gia nhập doanh nghiệp cũng khó có thể cưỡng lại xu thế “phản sáng tạo” vẫn đang ngấm ngầm vùi dập mọi nguồn cảm hứng này.

Xu thế này bắt nguồn từ quan niệm sai trái về quá trình ra đời một sáng kiến. Các nhà lãnh đạo cao cấp nhịn nhường như đã mặc định rằng tạo ra sáng kiến cũng không khác gì một trò ảo thuật và rằng nếu họ để mặc cho những tiềm năng tự mình bươn chải thì sớm muộn gì ý tuởng cũng đơm hoa kết trái. Để rồi, các bộ phận kinh doanh, marketing, chế tác và tài chính chỉ việc thong dong triển khai và hốt bạc từ những ý tưởng đó. Bản tính, sự ra đời của các sáng kiến khác thế rất nhiều.

Quy trình thực sự sẽ là: trước hết, những người có ý tưởng mới sẽ thể hiện quan điểm. Bước tiếp theo, cũng chính những người này sẽ vạch ra đâu là điểm chủ chốt trong đề nghị của mình để từ đó tìm ra mối liên hệ giữa chúng cũng như tìm ra cách dung hoà các điểm dị biệt. Để minh hoạ cho nhận định trên đây, iPod chính là một trường hợp điển hình.

Ban đầu, nhà tham vấn của Apple trong đề án phát triển sản phẩm mới – ông Tony Fadell - đã nảy ra ý tưởng về sản phẩm. Tiếp đó, nhóm chế tạo của Apple đã cho ra đời sản phẩm từ việc kết hợp những chi tiết nhỏ với những thiết kế đặc trưng sẵn có của Apple chả hạn như bàn phím dễ sử dụng. Nhờ nhận được sự hiệp tác và hỗ trợ của các phòng ban trong suốt quá trình tạo ra sản phẩm nên Fadell không mấy khó khăn khi trình bày kết quả với ban lãnh đạo tập đoàn.

Trong bài viết này, chúng tôi sẽ đi sâu phân tích bí quyết thành công của các tập đoàn trong việc tìm, bồi bổ và đãi ngộ thiên tài phục vụ cho quá trình sáng tạo.

Thế nào là một người có năng lực sáng tạo?

Những nhà sáng tạo đều có năng lực nhận thức tốt bao gồm kỹ năng phân tích xuất dung nhan. Họ luôn biết cách nhắm vào trọng tâm và không phí tổn thời gian vào các nguyên tố ngoài lề. Các nhân tố ngoài lề này có thể là vô thiên lủng dữ liệu và nhiều luồng quan điểm trái chiều. Thông thường, những luồng ý kiến này đến từ phía khách hàng mà những quản lý sáng tạo tiềm năng sẽ có dịp cộng tác trong nay mai.

Một khi đã tách bạch được đâu là nguyên tố chính, họ sẽ chóng vánh biết cách làm thế nào để ráp nối những chi tiết nhỏ thành nhận định tổng quát. Những nhà lãnh đạo như vậy có luôn có khả năng vạch ra chiến lược ngay cả trong những tình huống rối ren nhất.

Thế nhưng, một nhà lãnh đạo có năng lực sáng tạo còn cần phải tập kết đủ vô số các nguyên tố khác. Đầu tiên, họ không được phép ngủ quên trên chiến thắng. Phó chủ toạ Viện nghiên cứu đường lối lãnh đạo của McDonald’s - ông David Small - nói rằng những con người sáng tạo phải luôn tự răn “những gì vẫn được coi là đúng trước kia chưa chắc đã đem lại thành công chờ mong khi một lần nữa được đưa ra áp dụng ở ngày nay. Thêm nữa, họ cũng nên biết rằng phụ thuộc vào những thành công đã vang bóng chẳng thể đảm bảo được thành công và phải luôn biết đón nhận thách thức mới bằng cái nhìn mới.

Họ có khả năng làm những thách thức bớt phần chông gai bằng việc vạch ra những điểm thuận tiện và đưa ra giải pháp ăn nhập với “gu” của những người cầm cân nảy mực trong công ty. Diễn tả này không giống với những người chỉ quen đi theo lối mòn, những con người chỉ với một đôi thắng lợi ban sơ đã vội tự mãn và bắt đầu tin lý lẽ của mình là đúng, ba hoa về sự uyên chưng của mình. Họ ngại tìm cái mới và chỉ lệ thuộc vào những gì đã qua vận dụng thực tiễn.

Theo lời David Small, tố chất thứ hai cần có ở một nhà sáng tạo tương lai là sự mẫn cảm và khả năng nắm bắt được những biến động của thế giới xung vòng quanh. Nếu như, tại tập đoàn McDonald’s, khi bước vào phòng họp, một nhà lãnh đạo sáng tạo phải tụ hội đầy đủ mọi luồng quan điểm đến từ đồng nghiệp, khách hàng, cấp dưới, cấp trên, những người bán hàng, đối tác và nhanh chóng định hình được mối bận lòng chính của mỗi nhóm dư luận. Dựa trên nguồn thông tin đó, họ sẽ tổng thể thành phương thức tiếp cận ăn nhập với đặc tính của từng nhóm.

Đó chính là nghệ thuật phối hợp các luồng quan điểm trái chiều thành nhân tiện thống nhất, giúp nâng tầm những ý tưởng hay thành những sáng kiến cho doanh nghiệp. Ông Small nói rằng, nếu đội ngũ lãnh đạo ngày mai không có được kỹ năng này thì họ khó lòng tạo ra bất kỳ liên quan nào đối với các phát kiến mới cho dù nền tảng cơ sở vật chất của tập đoàn anh ta đang đảm trách có tiềm năng và mạnh mẽ đến đâu. Để đoàn luyện được kỹ năng này, con người đòi hỏi phải có trực giác xã hội, sự thận trọng và lòng bền chí.

Hào kiệt luôn tiềm tàng, điều quan trọng là phải đầu tư tâm lực để kiếm tìm.

Lập luận của những người có năng lực sáng tạo thường có sức thuyết phục và mê hoặc lòng người. Họ biết xác thực đâu là nguồn thông tin chính xác phục vụ cho từng lĩnh vực cụ thể của công ty mình và sau đó, siêng năng góp nhặt sự trợ giúp đối với các dự án tiềm năng. Sáng kiến không thể sinh sôi khi những ý tưởng ban sơ đã bị vùi dập. Giám đốc marketing của MillerCoors - Andrew England - đã lập luận như sau: “những người mang tư tưởng sáng tạo thành công bởi họ có khả năng thuyết phục các bộ phận và các quản lý chuyên trách trong đơn vị của mình san sớt những điều tâm huyết và những ý tưởng hay.

Ở họ, ta luôn thấy được niềm ham khám phá và thèm khát lĩnh hội các ý tưởng, nhưng không hề xâm phạm sự tây riêng của người khác. Sau đó, họ còn cần vận dụng kỹ năng bán hàng và sức thu phục lòng người riêng có để giúp cho những ý tưởng chưa qua kiểm chứng của mình lọt qua mọi vòng sát hạch nội bộ. Đừng xem những nhận đinh trên đây là do tôi đã đề cao vai trò và ý nghĩa của kỹ năng kinh doanh”.

Tất nhiên, chúng ta cũng không thể phủ nhận về sự xung đột cố định về mặt quan điểm giữa người đưa ra sáng kiến và đồng nghiệp. Đây là lúc, chúng ta trông mong ở con người này khả năng gắn kết tài tình giữa cái riêng và cái chung rộng lớn. Trên lý thuyết, một người muốn đem tới luồng gió cải cách phải tiếp cận được với mọi nguồn lực và kết vừa ý tưởng theo cách hoàn toàn mới mẻ, vượt qua mọi buộc ràng xưa cũ và thói an phận thủ thường. Để làm được điều này, đôi khi họ phải ưng ý thực tiễn là: đề xuất của họ có thể trở nên lạc điệu.

Thế nhưng, cùng lúc đó, họ phải truyền chuyển vận được luồng tư tưởng mới đó tới đội ngũ lãnh đạo vốn vẫn mang trong mình lối tư duy cũ – một nhiệm vụ tưởng chừng thật gian truân. Phó Giám đốc   nhân sự   Johnson&Johnson đã có một nhận định khá sắc sảo về trường hợp này: ông gọi họ là những người tụ hội được sự tổng hòa vượt trội về mặt tâm lý bởi ngay cả trong một tổ chức có nhiều mối quan hệ chồng chéo giữa nhiều bộ phận và trong thế cô lập tột bậc, họ vẫn xuất nhan sắc hoàn thành nhiệm vụ. Ngay cả khi rơi vào thế bất lợi, họ vẫn luôn có được tư duy tổng quát.

Đãi cát tìm vàng

Ở phần nhiều các đơn vị, những con người có tố chất sáng tạo như chúng ta đã mô tả ở trên thường tiềm tàng trong bộ phận lãnh đạo cao cấp cũng như đội ngũ nhân viên. Nhiệm vụ của bạn là phải tìm ra và ít nhất phải tạm thời cho họ rỗi rãi khỏi những nhiệm vụ thường nhật. Chúng ta có thể đạt được điều đó bằng nhiều cách nhưng vấn đề là thời gian.

Vốn là người mê chơi gôn, David Small ví việc tụ hội công sức và nguồn lực phát hiện ra người tài ở McDonald’s giống như việc đóng hội phí sân golf. Ông lập luận rằng công việc này đòi hỏi chúng ta phải tuân thủ đầy đủ mọi nguyên tắc, thu thập dữ liệu xác thực, tuân theo quy trình tìm hào kiệt bài bản và huy động được sự góp sức của các giám đốc bộ phận thay vì chỉ mong đợi vào phòng ban nhân sự.

Định kỳ, nửa năm một, ban lãnh đạo của McDonald’s lại tiến hành kiểm tra kế hoạch của mọi cá nhân ở các bộ phận, doanh nghiệp hội nghị bàn tròn dành cho các anh tài và các cuộc hội thảo hoạch định đường lối, tiến hành sát hạch năng lực của các tài năng để bảo đảm rằng đây là những con người có định hướng đúng đắn (trong mối quan hệ với các phòng ban trong công ty, với các tổ chức khác, thậm chí với các nước khác) và tiến hành các kỳ đánh giá kết quả một cách hệ thống.

Đặt tài năng vào môi trường thực tiễn để thử lửa.

Tại tập đoàn truyền thông Reuters (mới sáp nhập với Thomson Corporation tháng 04/2008), ban lãnh đạo tìm ra những tài năng trong nội bộ bằng cách tiến hành các bản khảo sát dữ liệu có tính dự đoán. Cụ thể như sau, ban sơ, họ sẽ lập một bản kê đầu mục công việc: xác định rõ những yếu tố, năng lực và động lực chủ chốt đối với cấp dưới và tạo nền tảng cho việc thiết lập danh sách các nhân vật xuất dung nhan rồi sau đó sẽ tìm ra danh sách những nhà lãnh đạo có tư duy sáng tạo tiềm năng.

Một khi đã tìm ra những nhân vật như vậy, bạn cần xác định ai mới là người đích thực tụ hội đầy đủ tố chất ăn nhập với vị trí lãnh đạo tương lai. Rất rất nhiều tổ chức đã tìm được hàng ngũ kề cận xuất sắc như vậy sau nhiều cuộc phỏng vấn do các chuyên gia kiểm tra và phát triển đường lối lãnh đạo thuê ngoài chủ trì.

Trong những cuộc phỏng vấn này, các người tìm việc sẽ phải đối mặt với vô kể vấn đề hắc búa trong đó một số thông tin chủ chốt đã được lược đi một cách có chủ tâm bởi ban lãnh đạo muốn tìm ra ai là người có thể vượt qua sự rối bời của tình cảnh để đưa ra các giả thuyết thực tiễn dựa trên số liệu sẵn có, từ đó đi đến những quyết định và cơ sở lý luận rõ ràng đầy tính thuyết phục về bất kỳ sự được mất gắn liền với những quyết định mình đưa ra.

Thế nhưng, quy trình không dừng lại ở đây. Dần dần, các ứng viên sẽ được cung cấp thêm thông báo. Liệu anh ấy có thể kiểm tra được hết những liên quan có thể có? Liệu cô ấy có thể hướng những phân tích mang tính phê phán đó vào tình hình nội bộ và sẵn sàng đổi thay khi đã có trong tay đầy đủ căn cứ, liệu cô ta có bị những hệ tư trưởng xưa cũ và nhân tố tinh thần chi phối hay không?

Một người có tư duy sáng tạo thực sự sẽ không lệ thuộc vào niềm kiêu hãnh hay ánh hào quang quá khứ để tìm ra giải pháp cho tình hình mới. Và một khi nhận được nhiều thông báo mới, họ chóng vánh liên kết chúng với tình hình thực tiễn. Hơn thế, nhờ trực giác tốt, họ luôn luôn thu thập mọi phản hồi vào cuối mỗi quá trình đánh giá.

Trong các đợt phỏng vấn, Reuters luôn trông chờ ở các người tìm việc khả năng bảo vệ chính kiến cũng như trình bày quan điểm thật mạch lạc và thuyết phục. Nếu một ứng cử viên chẳng thể bảo vệ được chính kiến trong tình huống phỏng vấn một đối một đầy cam go chỉ vì không nhận được viện trợ của nhóm cộng tác và không có đầy đủ nguồn lực cấp thiết thì chưa chắc, anh ta đã có khả năng diễn đạt tố chất kinh doanh và sự tự tín cần thiết để thực hiện một ý tưởng nào đó trong môi trường làm việc phức tạp như Reuters.

Ở vòng phỏng vấn rút cục, ứng viên phải diễn giải thành thật nhưng hợp lý những điểm yếu của mình. Theo chủ tịch Ủy ban sáng kiến kiêm Chủ nhiệm chương trình tuyển chọn lãnh đạo trẻ của Thomson Reuters – bà Amanda West, “nếu những người trẻ chẳng thể phản xạ mau chóng trước câu hỏi này thì mức độ nhận thức đơn thuần của bản thân sẽ không đủ để họ trở thành những nhà sáng tạo thành công".

Tìm được thiên tài đã khó, mài dũa để "ngọc càng càng ngày càng sáng" còn khó hơn. Chính bởi thế phải đặt người tài vào môi trường thực tiễn để họ được thử lửa, trong đó, vai trò của những người giám sát là khôn cùng quan trọng.

Các nhà sáng tạo cần được đặt trong môi trường thực tế

Một khi đã lọt vào tầm ngắm, những nhân vật tiềm năng cần chứng minh rằng mình có khả năng nhận ra những ý tưởng có triển vẳng, dẫn dắt nhóm chuyên gia đa linh vực phát triển ý tưởng trước khi biểu hiện nó thật thuyết phục trước ban giám đốc. Starwood – công ty mẹ của chuỗi khách sạn Westin, W, St. Regis và Sheraton đã thực hiện quy trình này hết sức bài bản.

Sau khi nhận thấy giám đốc đảm nhiệm nhóm sản phẩm tầm trung chính là nhân vật có tiềm năng, Starwood bổ nhậm người này vào vị trí lãnh đạo nhóm phát triển dịch vụ giải trí trong nhà song song với phần nhiệm vụ hiện thời của anh. Dù đây là người có ít kinh nghiệm quản lý nhưng chính năng lực đã được chứng minh bấy lâu nay cùng tố chất của một người có năng lực sáng tạo đã thuyết phục ban giám đốc của Starwood trao thời cơ cho người này.

Giám đốc sản phẩm gần như hoàn toàn tự quyết trong việc chọn lựa cộng sự từ các bộ phận khác nhau của tập đoàn (tất nhiên, trước đó, anh ta phải thoả thuận ổn thoả với người quản lý bây giờ của họ), quy định phong cách làm việc, lệ luật cơ bản, chiến lược cùng mục đích cho nhóm. Gần như ngay ngay lập tức, anh phải đưa ra kế hoạch marketing chi tiết và bảo vệ chính kiến trước hội đồng phản biện gồm những vị trong ban giám đốc bao gồm cả tổng giám đốc Starwood.

Hồi tưởng lại tình hình lúc đó, anh nói:”thoạt đầu, tôi tưởng như mình có thể chết đi được. Nhưng dần dần, chậm mà chắc, tôi đã trấn tĩnh và nhận ra rằng mình hiểu về dự án này tận tường hơn bất kỳ ai trong hội đồng phản biện.

Thậm chí, nhiều lúc tôi còn lật ngược tình thế làm người phản chưng lại ý kiến của hội đồng; và chính họ cũng kiểm tra cao điều này. Sau đó, các thành viên của ban giám đốc không chỉ tán đồng về mặt văn bản với kế hoạch của tôi mà còn mở rộng phạm vi quyền hạn, tạo điều kiện để tôi có thể tiếp cận với mọi nguồn lực trong đơn vị và quan yếu hơn cả, họ luôn tin tưởng rằng tôi hoàn toàn có thể vượt qua mọi áp lực và kiểm soát được tình hình trước sự rối bời và hỗn loạn đồng thời họ còn thuyết phục những người khác cũng có được niềm tin giống như họ”.

Tương tự, McDonald’s cũng luôn tạo điều kiện cho những người có khả năng được diễn đạt năng lực trước ban giám đốc. Tập đoàn luôn khuyến khích những người này hợp tác cùng cấp quản lý trực tiếp ở từng bộ phận để có thể tìm ra những sáng kiến sẽ tạo ra sức lan toả rộng khắp. Những ý tưởng này không hề bị bó buộc về khuôn khổ và không cố định phải ảnh hưởng tới sản phẩm cụ thể (chả hạn, bây giờ, mối nhọc lòng hàng đầu của McDonald’s là tăng cường quan hệ đối tác với Wal-Mart).

Một khi có thời cơ, những con người này sẽ chiêu mộ và quản lý nhóm chuyên gia tụ hội từ nhiều bộ phận. Nhân tố đa năng này bảo đảm rằng nhóm sẽ đưa ra vô vàn ý tưởng để từ đó chọn ra phương án tối ưu nhất đưa vào triển khai – chính là yêu cầu tối cần thiết để một ý tưởng lọt vào mắt xanh của ban giám đốc McDonald’s.

Mọi thành viên trong nhóm sẽ cùng với người quản lý tham gia bàn thảo khôn xiết cởi mở nhằm phân tích kỹ lưỡng những cái được và mất của giải pháp đã đưa ra. Hàng ngũ quản lý muốn tìm hiểu cách các thành viên trong nhóm hiệp tác cùng nhau cũng như tìm ra giải pháp có tính thực tại, được cân nhắc và khả thi. Liệu nhóm có thể phân tách những vấn đề phức tạp để nhận ra đâu là mục tiêu then chốt cần hướng tới? ưng chuẩn kỹ năng giao tế và thuyết phục thuần thục, liệu người lãnh đạo nhóm – cũng là lãnh đạo sáng tạo chỉ trong mai kia – có thể sáng tạo, đôn đốc và cổ vũ một nhóm có hiệu suất làm việc cao vạch ra một giải pháp quyết liệt? Câu trả lời là Có.

Một tổ chức sinh sản sản phẩm công nghiệp lớn có trụ sở tại Anh cả quyết rằng những nhà lãnh đạo tiềm năng phải được xúc tiếp với môi trường làm việc của phòng kinh doanh. Mới đầu, giám đốc kinh doanh đón nhận quyết định này của cấp trên đầy miễn cương và nghi ngại. Ông này nói: “không thể hiểu nổi, tại sao họ lại muốn “nhét” một người không có chút kinh nghiệm gì về kinh doanh vào nhóm của tôi trong khi chúng tôi còn đang phải hoàn tất nhiều giao kèo quan yếu”.

Thế nhưng, ban giám đốc đã quyết và cho rằng làm vậy, những nhân vật tiềm năng sẽ có thời cơ học hỏi thêm về nhu cầu khách hàng và phát triển kỹ năng kinh doanh cấp thiết cho việc khai triển các sáng kiến, sát cánh cùng đội bán hàng giàu kinh nghiệm để phát triển kỹ năng bán hàng, xác định nhu cầu khách hàng phối hợp với các cuộc gọi tới khách hàng. Tất cả đều hỗ trợ cho việc ký kêt hiệp đồng.

Dưới áp lực của giám đốc điều hành, giám đốc kinh doanh đành chấp thuận thực hiện kế hoạch và sau đó, bất chấp những nghi ngại ban đầu, kế hoạch này đã trôi chảy ngoài sức mong chờ. Thậm chí, giám đốc kinh doanh còn phải thú thật: “Đúng là lúc đầu tôi chỉ mong sao nhân vật này sẽ sớm bẽ bàng và làm cho chúng tôi tuột mất đơn hàng. Có vậy, thì anh ta sẽ là người trước tiên bị sờ gáy.

Thế nhưng, sự việc lại diễn biến theo hướng khác hẳn. Khi khách hàng đã tới đông đủ, anh ta biểu lộ khả năng đặc biệt trong sự nhìn nhận đâu là điều chính yếu tương tác tới quyết định của người cốt lõi phía đối tác. Anh ta tiếp cận khách hàng một cách đầy hiệu quả nhưng cũng thật giản dị. Cuối cùng, tôi nhận ra một điều: chính đội kinh doanh chúng tôi mới là những người cần phải học hỏi đôi điều từ con người này”.

Thế nhưng, quy trình tuyển chọn không bao giờ dừng lại ở độc nhất vô nhị một dự án. Nhiều đơn vị với nỗ lực tìm và bồi bổ cho được vị trí lãnh đạo sáng tạo không bằng lòng thất bại. Ở Reuters, nếu người tìm việc tiềm năng chẳng thể vượt qua bài tuyển chọn, họ sẽ lại tiếp tục quay về vị trí công tác. Nếu họ thành công, họ sẽ chuẩn bị ý thức đối mặt với những thử thách cam go hơn trước đi kèm với đó là nhiều nguồn lực tương trợ, hướng dẫn và dĩ nhiên nhiều động lực cố gắng hơn.

Bản chất, quá trình phát triển này (trao cho người tìm việc thời cơ và quan sát cách họ đối phó với tình hình) là một phần của quy trình kiểm tra. Theo Phó tổng giám đốc kiêm Giám đốc toàn cầu gánh vác ngành hàng nguyên phụ liệu và năng lượng của Reuters – ông Tom Gros: tại Reuters, việc đưa ra các sáng kiến cũng y sì như trò chơi bắn đạn, “khi đưa ra càng nhiều ý tưởng, thì bạn càng được thưởng nhiều bóng để thoả sức chơi. Nhưng một khi thất bại, bạn sẽ bị loại khỏi cuộc chơi”.

Vai trò của người kèm việc

Những tổ chức khôn ngoan đều gắn kết các người tìm việc với những người kèm việc – cũng được tuyển lựa hết sức kỹ lưỡng để những người này có thể chỉ bảo cho ứng cử viên về những mối quan hệ cần thiết lập trong mai sau. Còn nhớ, khi Allstate triển khai gói dịch vụ bảo hiểm Your Choice, hãng này đã giới thiệu nhóm sáng chế gánh vác dự án với nguời kèm việc. Duyệt sự chỉ bảo của người kèm việc, họ đã hiểu thêm về các nguyên tố khuyến khích, mục tiêu, quan điểm, và phí tổn cho từng bộ phận liên quan chả hạn như xử lý, kiểm tra sản phẩm và thống kê bảo hiểm. Đích thân giám đốc điều hành lại là người theo sát và chỉ bảo cho những người kèm việc. Chỉ riêng điều này thôi, chúng ta đã có thể hiểu vai trò quan yếu của sáng kiến với sự thành bại của một công ty. Kèm việc chính là sự bổ khuyết cho trực quan đi kèm với sự tò mò của các nhà lãnh đạo sáng tạo tương lại.

Ở những doanh nghiệp hàng đầu, nhờ có người kèm việc, những lãnh đạo tiềm năng có thể tham khảo quan điểm và kiểm định giả thuyết mới trước khi công bố rộng rãi ý tưởng, song song cũng hiểu rõ hơn về các yêu cầu cấp quản lý mong đợi ở họ. Là người đi trước, người kèm việc có thể san sớt các thông tin tương tác tới một bước đi cụ thể nào đó (chả hạn, ai đó từng thử làm nhưng rồi đã thất bại) và có thể kiểm tra để từ đó củng cố lại các lập luận của các ứng viên giúp họ có được sự tự tin trước khi ban bố sáng kiến của mình.

Trước kia, mối quan hệ giữa người kèm việc và người học việc sẽ là họ cùng làm việc với nhau cho tới khi một trong hai nghỉ hưu. Nhưng ngày nay, các doanh nghiệp thành công đều khuyến khích các người tìm việc phải làm việc với nhiều người kèm việc cùng một lúc. Bởi điều này tốt cho ứng viên: họ sẽ có dịp lĩnh hội nhiều ý tưởng, tiếp xúc với nhiều người có tầm liên quan, và linh hoạt hơn khi xin lời khuyên cho một tình huống cụ thể nào đó.

Điều này được minh chứng bằng câu chuyện xảy ra tại Đại học Vanderbilt. Vài năm trước, nguyên giáo sư ngành luật của trường đã nằm trong tầm ngắm của hiệu trưởng Gordon Gee như một người có khả năng kiến tạo. Sau khi tiến hành tuyển chọn, phỏng vấn một đối một, ngài hiệu trưởng đã hoàn toàn bị Zeppor chinh phục: đây đích thị là hiệu trưởng mai sau.

Chủ tịch hội đồng quản trị của Vanderbilt – bà Martha Ingram, dù đã bị thuyết phục bởi khả năng của người tìm việc này nhưng quyết đoán rằng anh ta vẫn cần có người kèm việc thuộc nhiều phòng khoa của trường và điều đó mang tính chủ yếu đối với tương lai của trường.

Bà chủ toạ và ngài hiệu trưởng đã cẩn trọng lựa ra những người kèm việc cho ứng cử viên. Người tìm việc tỏ ra khôn xiết nhanh nhẹn, có ý thức học hỏi hăng hái và khá khôn khéo trong mối quan hệ với cựu học trò, các cổ đông và sinh viên. Năm 2008, Zeppor đã chính thức trở nên hiệu truởng trường Vanderbilt sau khi hiệu trưởng cũ chuyển sang làm chủ tịch trường đại học Ohio State.

Tuấn kiệt cần phải được đoàn luyện trong môi trường cạnh tranh để họ thấy họ không phải ngôi sao độc nhất toả sáng. Đó cũng là cơ hội để họ chứng minh bản thân và học cách làm việc theo nhóm.

Phát triển nhóm cộng sự

Nếu cùng một lúc, có tới một vài ứng cử viên cho vị trí lãnh đạo sáng tạo và cùng được đặt vào cảnh huống buộc phải đưa ra ý tưởng thì hẳn nhiên, cách xử lý tình huống của mỗi người khi đó sẽ rất khác nhau. Trong trường hợp này, tốt hơn hết, bạn nên tạo cơ hội để họ bổ sung ý tưởng cho nhau. Những nhóm cộng sự nếu thường xuyên gặp gỡ và trao đổi cởi mở thì họ sẽ có điều kiện củng cố tình bạn hữu và vô hình chung xây dựng môi trường làm việc hăng hái ở đó mọi người đều được tự do phát biểu ý kiến, chia sẻ thông tin và cùng hy vọng.

Một người quản lý lãnh đạo sáng tạo tiềm năng công việc tại một tập đoàn tiêu khiển lớn của Mỹ đã nói như sau về vai trò then chốt của mạng lưới cộng sự: “yếu tố bậc nhất đơn thuần chỉ là nói với mọi người xem họ cần phải làm gì để tự mình chống đỡ mọi áp lực và giới hạn thời gian để có thể thúc đẩy các dự án sáng tạo song hành với kỳ vẳng cao nhất. Chỉ cần lắng nghe xem, các đồng nghiệp đã từng công việc qua vị trí đó đối phó ra sao trước áp lực hay làm cách nào họ có thể hoàn tất công tác thôi, bạn đã có được câu trả lời thật vững chắc“.

Các cộng sự cũng giúp bạn trả lời những câu hỏi cụ thể hơn một tí chẳng hạn như trong đơn vị hoặc công ty của mình, đâu là những phòng ban nắm nguồn thông tin, ý tưởng và hiểu biết sâu sắc hơn cả? Đâu là điểm tới hạn? thường ngày, một mình người kèm việc chẳng thể trả lời mọi câu hỏi. Hơn thế, vững chắc, những người đồng sự sẽ san sớt với nhau những thông tin mà chưa chắc họ đã hé lộ cho cấp quản lý – cũng là những người kèm việc của bạn.

Về phương diện này, Starwood đã biết cách tận dụng màng lưới nhóm đồng sự để thúc đẩy hoạt động sáng tạo. Các nhà sáng tạo có thể tận dụng cái mà các công ty vẫn thường gọi là “vòng tròn hiệp tác” – nhóm chuyên gia đa lĩnh vực – vào bất kỳ thời khắc nào, chỉ bằng một cuộc họp. Bởi những con người này đã được huấn luyện để biết cách tận dụng sự viện trợ mà không gây bất kỳ áp lực lộ liễu nào đối với các thành viên trong “vòng tròn hợp tác” – cũng chính là những người đã chứng minh được khả năng sáng tạo và giờ đây lại trở thành người cầm trịch quy trình tuyển chọn người tài mới.

Giám đốc cấp cao cáng đáng marketing đã hồi tưởng lại quá trình lập nhóm chuyên biệt gồm thành viên của các phòng ban trong tập đoàn, phục vụ cho sự ra đời của chuỗi khách sạn có mức giá mềm hơn và hoàn toàn khác với chuỗi khách sạn xa xỉ và tầm trung đã từng có trước đây của Starwood. Trên cả sự bất thần, nhóm này không chỉ gồm chuyên gia marketing, điều hành, tài chính mà còn bao gồm cả nghệ sỹ, nhiếp ảnh gia, và thậm chí cả ca sỹ nhạc sỹ từng làm việc tại Starwood vài năm trước.

Khi đã thành lập nhóm xong xuôi, giám đốc marketing khởi đầu trằn trọc làm sao để có thể tận dụng tối đa thế mạnh của nó. Nhóm cộng sự khuyên ông nên đưa ra các câu hỏi khôn xiết đơn giản nhưng phải rất trọng điểm cho các thành viên của nhóm. Sau đó, ông đã hỏi nhóm cộng sự của mình: “nếu như, Howard Johnson[1] hay Holiday Inn[2] thời khắc này mới được thành lập thì chúng sẽ như thế nào nhỉ?”. Nhóm cộng sự đã đưa ra các giải pháp vô cùng mới mẻ nhưng khôn xiết thực tại làm sao để có thể tương trợ mà không cạnh tranh ngược lại với chuỗi khách sạn đã từng có của Starwood.

Một khi đã hình thành nên ý tưởng, giám đốc marketing khởi đầu bàn bạc với nhóm của mình xem phải làm gì để trình bày ý tưởng này một cách thật thuyết phục trước ban giám đốc. Các thành viên trong nhóm đóng góp rất nhiều gợi ý từ khâu thiết kế tới thực hành ý tưởng và góp ngôn ngữ không kém phần quan trọng vào việc thuyết phục các vị trong ban giám đốc tin vào tính khả thi của dự án.

Hai tuần sau, tổ hợp khách sạn mới có tên Aloft nhận được sự ưng ý của cả giám đốc điều hành cho tới các thành viên khác trong ban lãnh đạo tập đoàn chắp cánh cho sự ra đời của nó vào tháng 6/2008. Hồi tưởng lại sự việc, giám đốc marketing nói rằng “nhận được sự giúp đỡ của những chuyên gia sáng tạo khác của Starwood chẳng khác nào việc bỗng dưng, vào một ngày đẹp trời, bạn nhận ra mình có một người anh em sinh đôi từ nửa vòng trái đất. Tôi đã nhờ tới các đồng sự cũng đang cùng giải quyết bài toán cùng mình. Họ đã tiếp thêm nguồn lực vô tận cho tôi và tôi nghĩ, nhờ có họ, tôi hiểu rõ hơn về những gì đang diễn ra”.

Bồi dưỡng anh tài

Dù một đơn vị tìm ra nhân vật có năng lực sáng tạo, tẩm bổ và chỉ định nhóm kèm việc và cộng sự trợ giúp họ nhưng chuỗi quy trình vẫn khuyết đi một mắt xích quan yếu nhất đó là: sẽ đặt họ vào vị trí nào sau khi đã tiến hành tất cả những bước đó? Ở vị trí nào thì những con người này sẽ phát huy được tầm thúc đẩy tối đa? Đâu là những nút thắt vô hình ẩn trong các mối quan hệ đa chiều của một công ty - những chiều quan hệ không bao giờ được thế hiện trên bất kỳ sơ đồ đơn vị nào; tìm được những nút thắt đó, ta sẽ có chìa khoá để các ý tưởng thoả sức cất cánh.

Những công ty thành công trong việc tẩm bổ lãnh đạo có năng lực sáng tạo đều làm những điều vượt ra mọi khuôn mẫu từng có. Họ sẵn sàng cất nhắc nhân vật trong tầm ngắm ra khỏi những chiếc ghế ấm áp, vững chãi và có thu nhập tốt để đặt vào những vị trí chưa từng có trên sơ đồ doanh nghiệp. Ở vị trí mới này, họ - nhân vật trong tầm ngắm - tự do phát triển trọng điểm sáng tạo, dễ dàng tiếp cận với những người có vai vế khác trong doanh nghiệp, nắm quyền chủ động hơn trước, đảm đương các chức trách quan trọng hơn nhưng cũng mơ hồ hơn trước, và có khả năng đánh giá liệu các sản phẩm, ý tưởng và nhân sự bây giờ của doanh nghiệp cần được phối hợp theo cách nào để ngày càng gia tăng giá trị hơn nữa?

Ở Reuters, Tom Gros đã có những trải nghiệm thực thụ ấn tượng. Khi Gros gia nhập tập đoàn năm 2002, anh mau chóng chứng minh mình có những tố chất quyết định để trở nên nhà quản lý nắm vai trò kiến tạo. Anh dẻo dai mộ những nhân sự ăn nhập cũng như lượm lặt các sáng kiến hà tiện chi phí từ các phòng ban khác trong tập đoàn về cho phòng ban của mình. Theo dõi thành tích của Gros, năm 2006, giám đốc điều hành đảm đang nhánh thị trường của Thomson Reuters – ông Devin Wenig – đã giao cho Gros cáng đáng các thị trường mới cụ thể là xác định và tận dụng thời cơ phát triển. Chỉ với nguồn ngân sách eo hẹp nhưng bù lại thẩm quyền và sự chủ động cao, Gros đã thành lập nhóm cộng sự để phát triển nhóm công cụ phái sinh bằng việc vươn rộng ra những mảng kinh doanh mới như bất động sản, sản phẩm thân thiện với môi trường, và vận chuyển vận.

Để phục vụ cho mục đích này, nhóm thành lập “câu lạc bộ phản biện” làm môi trường đàm đạo ý kiến cho những quản lý khác của Reuters. Tham dự vào câu lạc bộ này, họ có điều kiện học hỏi, tham gia và tìm ra các cơ hội mới. Câu lạc bộ này sau đó đã trở nên điểm đến lý tưởng và môi trường đoàn luyện những nhân tài kiến tạo mới cho tập đoàn. Với một tập đoàn toàn cầu như Reuters, chiến lược này có lợi thế ở chỗ nó gần như không thể bị sao chép ở bất kỳ công ty nào có quy mô nhỏ hơn thế bởi ít tổ chức nào có đủ nhân công, ý tuởng và quan trọng hơn là lĩnh vực kinh doanh đòi hỏi phải cần đến sự kết hợp ý tưởng đa chiều như vậy cả.

Nếu không có được sự kết hợp này, các công ty nên phân nhỏ các nhánh kinh doanh chuyên biệt của mình giống như rất nhiều đơn vị khác đã từng tiến hành trong thập niên 90. Silos là một ví dụ. Đơn vị này nắm giữ các bí quyết chuyên biệt là tổng hòa của chuyên môn điều hành, hiểu biết sâu nhan sắc người tiêu thụ, kinh nghiệm nghề nghiệp..., Để cho ra đời những chiếc ví có đẳng cấp hàng đầu thế giới. Nếu không có sự viện trợ của các chuyên gia, người có ý tưởng sáng tạo không thể làm nên bất kỳ sự khác biệt nào. Chính thành ra, điểm then chốt chính là chúng ta phải phối hợp các nhà sáng tạo thành một nhóm làm việc để từ đó giúp họ tiếp cận với những nguồn lực hàng đầu.

Rút cuộc, ban giám đốc mà cụ thể là giám đốc điều hành chính là người có bổn phận bảo đảm rằng những nhân tài sẽ được đặt đúng vào vị trí trọng tâm của tập đoàn. Tại JP Morgan Chase, giám đốc điều hành Jamie Dimon và Giám đốc nhân sự luôn chủ đích “để dành” một loạt các vị trí tiềm năng cho các nhân vật có năng lực sáng tạo cốt phục vụ cho kế hoạch tăng tốc sau này của tập đoàn. Dimon tin rằng: “Thật ngốc nghếch khi nghĩ rằng chỉ có độc nhất một vị trí phù hợp với những nhà quản lý tài năng – những người sẽ cho ra đời các sáng kiến tột độ chỉ trong mai kia".

Cách làm của JP Morgan Chase chính là, nếu có bất kỳ vị trí nào thích hợp với anh tài họ đang kiếm tìm, họ sẵn sàng tạo ra nó. Sai trái nghiêm trong nhất chính là khi bạn đã tìm ra người tài rồi nhưng vẫn bỏ mặc họ với vị trí hiện thời. Phát triển hàng ngũ quản lý có khả năng tạo ra sáng tạo đột phá chính là mối bận tâm hàng đầu với Dimon nói riêng và ban giám đốc của JP Morgan Chase nói chung.

Napoléon từng nổi danh với câu nói: “Tài sản quan yếu nhất với một người chỉ huy chính là sự may mắn”. Thế nhưng, điều ông đã không hề đả động tới chính là may mắn chỉ đến khi người chỉ huy đó biết đặt những người được chuẩn bị kỹ lưỡng và biết kiểm soát tình hình vào đúng vị trí và đúng thời khắc. Tư tưởng của Napoléon đã được những chỉ huy tương lai thấm nhuần ngay từ buổi đầu gia nhập quân ngũ. Tư tưởng này cũng cho họ mọi phương tiện, quyền lực và cơ hội để chứng minh tài lược thao.

Ông xoành xoạch nói với cấp dưới của mình về sự cần thiết phải để tâm tới những ý tưởng hay và những chiến thuật quân sự độc đáo ngay khi chúng vừa phát sinh. Dù là con người ngạo mạn nhưng ông ta vẫn đủ minh mẫn và chín chắn để nhận ra đâu là những ý tưởng hay và ông muốn các cấp tướng của mình cũng nắm bắt được điều đó. Một trong số các tướng tá của Napoléon đã tìm ra cách kết hợp ý tưởng và giành chiến thắng trước những kẻ thù sừng sò tưởng chừng chẳng thể quật ngã dù chỉ với những trang bị vô cùng eo hẹp.

Điều này cũng đúng với các sáng kiến trong kinh doanh. Tuân thủ theo những phương pháp phát hiện và nuôi dưỡng đội ngũ sáng tạo trên đây chẳng thể đảm bảo cho tổ chức bạn bình an vô sự trước cạnh tranh ác liệt bởi bất kỳ lúc nào, đối thủ cũng có thể khiến bạn phải choáng váng bởi những sáng tạo bất thần và sẵn sàng hất cẳng bạn khỏi thị trường.

Thế nhưng, nó vẫn luôn bảo đảm rằng doanh nghiệp của bạn có thể nuôi dưỡng được các sáng kiến và duy trì dòng chảy sáng tạo trong đơn vị. Thậm chí, ngay cả khi nó còn không thể làm được điều này nữa thì dẫu sao, bạn cũng luôn ở thể chủ động hơn đối thủ để có thể thích nghi trước những thay đổi khi mà những sáng kiến vượt bậc chưa đến.

Quantri.Vn

Mô hình   huấn luyện   GROW

Một trong những nhiệm vụ quan trọng nhất của nhà lãnh đạo là tập huấn và huấn luyện (coaching) nhân viên để họ làm việc đạt hiệu quả cao nhất. Với vai trò này, nhà lãnh đạo sẽ giúp viên chức cải thiện kỹ năng giải quyết vấn đề, ra quyết định tốt hơn, học được những kỹ năng mới và thăng tiến trong sự nghiệp.

Không phải nhà lãnh đạo nào cũng có may mắn được đào tạo bài bản về kỹ năng tập huấn viên chức và đa phần để có được kỹ năng này họ đều phải tự học. Điều này nghe có vẻ nản lòng. Tuy nhiên, nếu bạn nắm được một số cách thức chủ yếu, tìm cơ hội để thực tập và tin vào khả năng của mình, bạn có thể trở thành một người đào tạo tốt và giúp tăng hiệu quả làm việc của đội nhóm do bạn quản lý.

Một trong những phương pháp bổ ích để đào tạo viên chức là sử dụng mô hình GROW. Đây là từ viết tắt của Goal (mục tiêu), Current Reality (thực tại), Options (biện pháp) và Will (Ý chí).

Mô hình GROW là gì?

Một trong những nhiệm vụ quan yếu nhất của nhà lãnh đạo là tập huấn và tập huấn (coaching) viên chức để họ làm việc đạt hiệu quả cao nhất.

Bạn có thể hình dong mô hình GROW giống như kế hoạch bạn lập cho một chuyến hành trình quan yếu. Đầu tiên, bạn cần lập lộ trình chuyến đi. Dựa trên lịch trình này, bạn giúp các thành viên trong nhóm quyết định địa điểm họ định đến (mục đích) và xác định vị trí bây chừ của họ (thực tại). Sau đó, bạn suy nghĩ những cách thức khác nhau (chọn lọc giải pháp) để thực hiện chuyến đi. Ở bước rốt cục (nung đúc ý chí), bạn cần đảm bảo tất cả thành viên nhóm của bạn đều kiên tâm thực hành chuyến đi và chuẩn bị sẵn sàng cho mọi tình huống và trở lực họ gặp trên đường.

1. Thiết lập mục đích:

Trước tiên, bạn cùng với các thành viên khác trong nhóm sẽ xác định các mục tiêu cần đạt được. Mục tiêu này cần cụ thể, đo lường được và có tính hiện thực. Ớ bước này, bạn có thể sử dụng một số câu hỏi sau:

“Làm cách nào bạn biết mình đã đạt được mục đích?”
“Làm cách nào bạn biết mình đã giải quyết được vấn đề?”

2. Xem xét, kiểm tra hiện trạng công tác:

Hãy đề nghị các thành viên trong nhóm cho bạn biết tình trạng công việc của họ. Bạn phải nắm chắc điều này thì mới có thể cùng họ tìm ra biện pháp được. Ở bước này, bạn có thể sử dụng một số câu hỏi sau:

“Tình hình hiện nay ra sao?”
“Làm gì, ai làm, làm khi nào và bao lâu một lần”
“Tác http://blognhansu.Net động hoặc kết quả của một hành động nào đó?”

3.   Kiếm tìm   giải pháp:

Một khi bạn và nhân viên đã nắm được tình trạng hiện giờ của công việc, hãy bắt đầu kiếm tìm tất cả những giải pháp khả dĩ để giải quyết vấn đề rồi cùng bàn bạc. Hẳn nhiên, bạn sẽ phải đưa ra biện pháp của riêng bạn. Ngoại giả, hãy để viên chức của bạn đưa ra biện pháp trước cũng như cho họ thời cơ để biểu đạt quan điểm.

Ở bước này, bạn có thể sử dụng một số câu hỏi sau:

“Các anh (chị) còn có thể làm gì nữa?”
“Ưu và nhược điểm của mỗi giải pháp?”
“Bạn dựa vào nguyên tố nào để coi xét, đánh giá cơ may thành công của các biện pháp?”

4. Nung đúc ý chí:

Sau khi xem xét, kiểm tra tình hình thực tế và tìm giải pháp, thành viên trong nhóm của bạn đã hình dung một rõ ràng phương pháp họ có thể đạt được mục tiêu. Bên cạnh đó, như thế vẫn chưa đủ. Bạn cần giúp họ có được lòng kiên tâm, ý chí và động lực để biến chúng thành hành động cụ thể. Hãy hỏi họ những câu sau:

- Vậy thì bạn sẽ làm gì vào thời khắc hiện tại?
- Điều gì có thể khiến ngăn trở bạn tiến hành công tác?
- Bạn làm cách nào để vượt qua trở ngại này?
- Việc này có giúp bạn đạt được mục tiêu không?
- Xác suất thành công của biện pháp này có cao không?
- Bạn còn muốn làm việc gì khác nữa?

Cách thức lý tưởng để thực tập sử dụng mô hình GROW là hãy dùng nó để giải quyết những vấn đề bạn gặp trước.

3 bí quyết để áp dụng mô hình hiệu quả

1.Ý thức rõ vai trò của bạn

Trên lý thuyết, khi ứng dụng mô hình GROW, người huấn luyện không đóng vai trò một chuyên gia mà là người gợi mở để người được tập huấn có thể thoải mái thể hiện ý kiến, giúp họ chọn được biện pháp tốt nhất, chứ không cho họ lời khuyên hay sự định hướng nào.

Ngoại giả, nếu bạn là nhà lãnh đạo thì mọi việc sẽ khác. Nhiệm vụ của bạn là phải cung cấp cho nhân viên những kiến thức mới và định hướng để viên chức chọn được những giải pháp tốt nhất cho công ty.

2. Hãy tập giải quyết những vấn đề của bạn trước

Phương pháp lý tưởng để tập sự sử dụng mô hình GROW là hãy dùng nó để giải quyết những vấn đề bạn gặp trước. Nhờ vậy, bạn sẽ học được cách hỏi những câu bổ ích nhất. Hãy ghi lại những câu hỏi này để sử dụng trong những lần bạn đào tạo cho nhân viên trong tương lai.

3. Đặt những câu hỏi hay và lắng tai người khác kỹ càng

Hai kỹ năng quan trọng nhất của một chuyên gia đào tạo là đặt câu hỏi và lắng nghe. Bạn không nên đặt những câu hỏi đóng kiểu: “Việc này có gây khó khăn gì cho anh (chị) không?”… mà hãy đặt những câu hỏi mở như: “Việc này gây ra những tương tác gì đến anh (chị)?”… tuy nhiên, bạn nên để viên chức nói trong phần đông thời kì còn bạn thì lưu ý lắng tai họ. Bạn không nên hỏi liên tiếp mà nên có khoảng dừng để viên chức (và cả bạn) có thời kì nghĩ suy.

Quantri.Vn

Thứ Bảy, 4 tháng 4, 2015

5 bí hiểm về lương - Human Capital

5 bí mật về   lương

Tiền lương luôn là điều mọi người đi làm đều quan tâm. Chúng tôi xin giới thiệu với bạn 5 bí hiểm và nghệ thuật bạn cần nắm vững để giành được mức lương tốt nhất cho mình.

Bí hiểm 1: Khoản lương của bạn không cố định đề đạt năng lực và kinh nghiệm làm việc

Những nhà quản lý tổ chức sẽ trả lương theo đúng nhu cầu của thị trường để có được ứng viên phù hợp nhất. Do vậy, trong một thị trường lao động cạnh tranh như bây giờ, mức lương khởi điểm của những nhân viên mới vào làm việc có thể gần bằng hay thậm chí bằng mức lương của bạn, mặc dù bạn hơn họ về trình độ học thức và thâm niên công việc.

Một đôi tổ chức đã tiên phong thực hiện những nghiên cứu về tính hợp lý của lương thưởng trên một nền tảng căn bản nào đó và khắc phục vấn đề. Nếu họ phát hiện ra rằng khoảng cách giữa khoản lương của bạn và những viên chức mới tuyển không đủ lớn, họ có thể tăng lương cho bạn một khoản lớn hơn nhiều so với mức tăng nhất mực theo quy định. Bên cạnh đó, nhiều doanh nghiệp không chủ động với công tác này và họ sẽ không làm gì trừ khi bạn trực tiếp phản ánh.

Bạn nên làm gì: Luôn nắm bắt và theo kịp mức lương của những người có cùng kinh nghiệm và trình độ học vấn như bạn. Trong trường hợp bạn nhận thấy có một khoảng cách hãy nói với sếp.

Bí mật 2: Mức tăng thực tế có thể cao hơn so với mức tăng đưa ra

Khi phải quyết định mức tăng lương do công trạng hay thâm niên công việc, sếp của bạn luôn hết sức thận trọng về việc sẽ tăng bao lăm để tỷ lệ tăng trung bình không vượt quá một mức định nào đó. Tỉ dụ, mức định sẵn là 3,5%, sếp có thể thưởng cho nhân viên xuất dung nhan nhất với mức tăng 5% còn những viên chức dưới mức nhàng nhàng chỉ là 2%.

Trên thực tế quỹ tiền dành cho việc tăng lương có thể lớn hơn con số mà sếp của bạn quyết định. Căn do là do nhiều tổ chức sáng dạ luôn để sẵn một quỹ phòng ngừa để sử dụng khi cần giữ chân những nhân viên xuất dung nhan mà họ có nguy cơ bị mất.

Thành ra, đừng bao giờ nhận lời đề nghị đầu tiên. Hầu hết các đơn vị đều có những mức lương khác nhau và đôi khi có vài mức lương cá biệt họ có thể trả. Một hành động nhỏ nhưng ít người chú ý là tạo cho sếp cơ hội để có thể trả lương cao hơn cho bạn. Điều đó chứng tỏ bạn là người cao tay. Nếu sếp rất muốn có bạn, thì đây là cơ hội để bạn có thể đề xuất mức lương cao nhất có thể.

Hãy khẳng định bạn có đủ năng lực làm việc đáp ứng với nhu cầu của đơn vị, và bạn đề nghị mức tăng 8% khi doanh nghiệp đưa ra mức thường ngày là 4,5%. Các nhà quản lý sáng dạ sẽ sự tự hỏi bản thân: Liệu mình có sẵn sàng mất nhân viên này chỉ vì 500 USD/tháng. Trên thực tế nếu họ cần bạn, thì khoản tiền tăng đó rất nhỏ bé so với những tổn phí họ phải bỏ ra để tìm người thay thế bạn.
Bạn nên làm gì: Ngày coi xét và quyết định mức tăng lương không nên là thời điểm để thương lượng một mức cao hơn do nhà quản lý đã duyệt sự gia tăng này và hạch toán nó vào sổ sách tài chính. Thời cơ cho nên sẽ khó khăn hơn rất nhiều. Chiến dịch của bạn nên bắt đầu từ một tháng trước đó. Hơn nữa, bạn phải diễn tả bản thân thật tuyệt vời trong khoảng một năm trước khi tăng lương. Đừng ngại nói với sếp rằng: Tôi đã làm việc đó đấy.

Bí mật 3: Khi sếp nói với bạn rằng tổ chức chẳng thể trả lương nhiều hơn cho bạn vào lúc này, tài chính có thể không phải là vấn đề

Nếu bạn yêu cầu tăng lương và sếp của bạn nói rằng tài chính tổ chức hiện rất eo hẹp - hãy hỏi ông ta rằng tổ chức sẽ mất gì nếu bạn được tăng lương theo mức yêu cầu.

Nếu bạn không nhận được câu trả lời rõ ràng hay những lời khích lệ cổ vũ, điều đó có nghĩa: sếp nghĩ rằng bạn xứng đáng với khoản lương đó ở vị trí công việc ngày nay; sếp không có quyền ra quyết định; bạn đang được trả mức lương cao nhất trong khung trả lương đối với vị trí công việc của bạn.

Bạn nên làm gì: Bạn nên quan tâm tới việc liệu bạn có còn muốn làm việc tại vị trí công việc hiện tại ở doanh nghiệp nữa hay không.

Bí mật 4: Các sếp sẽ trả lương cao hơn nếu họ thích bạn

Sẽ có một vài viên chức được sếp yêu quý hơn những người khác, và đôi khi là hơn rất nhiều. Điều đó không có nghĩa bạn cần nịnh và chiều lòng sếp rất đỗi, mà phải là những người giúp đỡ sếp hiệu quả trong công việc cũng như tạo điều kiện để họ trở nên những nhà quản lý tốt.

Bí ẩn 5: Bạn chẳng thể thương lượng khoản lương khi hết hiệp đồng

Trừ khi bạn có một bản hiệp đồng quy định rõ, còn bằng không các công ty đã cho bạn nghỉ việc sẽ có quyền không trả cho bạn khoản lương thưởng khi hết hợp đồng. Mặc dầu vậy, thường nhật họ vẫn trả cho bạn một đôi thứ gì đó. Câu hỏi đặt ra là liệu nó có thỏa đáng đối với những đóng góp tiếp theo của bạn.

Nếu bạn không cho rằng chưa đủ, bạn có thể luận bàn để đạt được nhiều hơn, nếu bạn có một đôi lợi thế cố định. Yếu tố chủ chốt nằm ở chỗ “Giá trị đặc quyền”. Tỉ dụ, bạn có phải là người độc nhất vô nhị trong tổ chức nắm được các chi tiết quan trọng của dự án hiện tại hoặc là người biết rõ làm thế nào để vận hành các chức năng quan yếu nhất hay không? Nói cách khác, liệu họ vẫn còn cần điều gì đó ở bạn?

Bạn nên làm gì: Khi đưa ra những đề nghị, bạn nên nhớ rằng mình đang thương lượng với cá nhân sếp chứ không phải với tổ chức.

Sau rốt, trong nghệ thuật thương lượng lương thưởng, bạn nên hiểu rằng không phải lúc nào cũng yêu cầu một mức lương cao chót vót là đúng, mà thay vào đó là một mức lương bạn cảm thấy hài lòng.

Quantri.Vn

Để có thể nhận diện đúng người tìm việc   tuyển dụng

Trong nhiều trường hợp, các người tìm việc trúng tuyển chủ động xin nghỉ ngay khi đang trong thời kì thử việc với lý do không ăn nhập, một số khác thì lại khước từ nhận việc sau khi đã tham gia phỏng vấn thành công… Các trường hợp trên đã khiến bộ phận   nhân sự   của doanh nghiệp bị kiểm tra là không hiệu quả, và công ty thì tốn nhiều thời kì và phí tổn

Săn người tìm việc dựa trên tính cách…

Trong quy trình   tuyển dụng   trước kia, các doanh nghiệp thường tuyển lựa những cách thức truyền thống để nhận diện ứng cử viên như phỏng vấn trực tiếp, đánh giá khả năng giao dịch Ngoại ngữ hoặc đưa ra những bài đánh giá tư duy Logic… Các phương pháp trên tỏ ra khá hiệu quả trong việc đánh giá xác thực tri thức cũng như kỹ năng của người tìm việc. Tuy nhiên trong nhiều trường hợp, nhà tuyển dụng lại chẳng thể xác định được tính cách của ứng cử viên dẫn đến nhiều trường hợp các người tìm việc có khả năng thực hành tốt công việc được giao nhưng lại không thích hợp với văn hóa công ty khiến mối   lương   duyên giữa người tìm việc và doanh nghiệp sớm vỡ vạc.

Bà Bùi Thị Ngọc Chi - Trưởng phòng tham vấn tuyển dụng của vipdatabase.Com/ cho biết: “Khi phỏng vấn về kiến thức chuyên môn và kiểm tra giấy tờ ứng tuyển, ngoài việc xem xét người tìm việc có thích hợp với các tiêu chí của công việc hay không, nhà tuyển dụng còn cần phải nhận mặt được tính cách cũng như phong cách của người tìm việc. Bởi đây là một trong những yếu tố quan yếu để xác định người tìm việc có thật sự phù hợp với công việc, văn hóa công ty hay không, đây là nguyên tố cần thiết đảm bảo cho sự gắn bó lâu dài của người cần lao với công ty. Ngày nay, nhiều chuyên gia đã cho rằng các thành tựu lao động đạt được của các cá nhân phần đông do tính cách trong mỗi con người tạo nên”

Theo bà Chi, để nhận diện được tính cách của người tìm việc, nhà phỏng vấn có thể đưa ra một số câu hỏi như: “Anh (chị) vui lòng liệt kê 05 tính từ nói về tính cách của bạn phê duyệt những người đồng nghiệp hoặc sếp của bạn bộc lộ về bạn”. Hoặc phê duyệt những buổi gặp gỡ bàn luận ngoài văn phòng (Coffee shop, quán ăn), nhà phỏng vấn cũng có thể nhận ra được ưng chuẩn cách đàm đạo, trò chuyện. Những môi trường giao thiệp ngoài công sở sẽ tạo điều kiện cho các người tìm việc có thể thổ lộ hết xúc cảm và cách giao tế thông thường. Hoặc như tại vipdatabase.Com/ , chúng tôi có một số bài kiểm tra để nhận mặt người tìm việc thuộc tuýp người nào và thích hợp với những ngành nghề nào”

…. Và việc xử lý tình huống

Ngày nay, quy trình tuyển dụng các người tìm việc dài hay ngắn hoàn toàn tùy thuộc vào vị trí tuyển dụng. Đối với cấp độ viên chức hoặc chuyên viên, nhà phỏng vấn sẽ không phải mất nhiều thời gian và phí đầu tư cho việc nhận diện ứng viên mà bình thường chỉ cần phỏng vấn là đủ. Ngoại trừ một số ngành Kỹ thuật đòi hỏi về kiến thức chuyên môn thì nhà phỏng vấn có thể đưa ra thêm một số bài đánh giá khác.

Đàm luận thông báo về quy trình tuyển dụng các vị trí cấp trung và cấp cao, bà Nguyễn Thị Nguyệt – Giám đốc tham vấn nhân sự Nhân Việt cho biết: “Đối với các vị trí quan yếu trong công ty, quy trình tuyển dụng thường sẽ kéo dài thêm nhiều vòng. Khi đó, các ứng cử viên không những phải thuyết trình trước Hội đồng tuyển dụng (có sự tham gia của của nhiều lãnh đạo đơn vị) về những thành quả trong kí vãng mà còn phải thực hành những bản kế hoạch cụ thể mà công ty đề xuất. Ưng chuẩn đó, nhà phỏng vấn chẳng những có thể đánh giá được kiến thức và kinh nghiệm của ứng cử viên mà còn nhận mặt được các kỹ năng như kỹ năng thuyết trình, kỹ năng xử lý tình huống hay các kỹ năng quản lý khác .V.V.”

Ngoại giả, nhà tuyển dụng cũng có thể đưa ra những câu hỏi cảnh huống có chừng độ khó dễ tùy theo vị trí công việc. Ví dụ như đối với các vị trí giám đốc kinh doanh, nhà phỏng vấn có thể đưa ra những vấn đề giả thiết để người tìm việc tự đưa ra cách giải quyết như: “thời kì vừa qua, việc chậm trễ trong quá trình giao nhận của một số viên chức kinh doanh đã khiến cho khách hàng thất vọng và khiếu nề hà, gây thúc đẩy không nhỏ đến hình ảnh của công ty trên thị trường. Anh (chị) sẽ xử lý cảnh huống trên như thế nào?” hoặc như “công ty hiện đang gặp rất nhiều khó khăn trong việc đưa hàng hóa tiếp cận khách hàng mục tiêu dù rằng nhu cầu về sản phẩm rất nhiều. Là giám đốc kinh doanh, anh (chị) có cách nào để cải thiện khâu phối của công ty”. Những câu hỏi tình huống được đặt ra sẽ giúp nhà phỏng vấn nhận biết được ứng viên ở nhiều góc cạnh khác nhau.

Nhận biết người tìm việc – công việc không phải đơn giản

Ngày nay do sự thúc đẩy của khủng hoảng kinh tế, số lượng người cần lao tìm việc ngày một tăng trong khi nhu cầu tuển dụng của các tổ chức lại ít đi mà yêu cầu của nhà tuyển dụng đưa ra cũng càng ngày càng cao hơn. Do đó, việc tìm ra được những ứng viên đạt đủ tiêu chuẩn và ăn nhập với văn hóa của đơn vị là không hề đơn giản. Một số các người tìm việc thời nay tự tin hơn hẳn so với trước và rất khó để nhà tuyển dụng có thể khai thác thông tin hay thuyết phục nhận việc.

Từng tham dự phỏng vấn nhiều vị trí khác nhau, bà Chi chia sẻ: “Để ứng cử viên nhiệt liệt giải đáp các câu hỏi, thông thường nhà tuyển dụng có thể sử dụng một số kỹ thuật khác. Ví dụ như chúng ta có thể đặt ra những câu hỏi về gia đình bạn bè, hoặc những câu hỏi gần gũi khác như bạn tìm đến văn phòng có khó không. Đôi khi, những câu hỏi như: Bạn có muốn uống nước gì không sẽ giúp các ứng cử viên có thể thoải mái chia sẻ thông báo.”

Song, bên cạnh vấn đề trên, nhà phỏng vấn vẫn gặp phải một số khó khăn khác, bà Nguyệt cho biết: “Có thể nói, ứng cử viên thời nay thật sự không giống ứng viên thời xưa, họ thường không có thái độ dứt khoát rõ ràng khi muốn đổi thay công việc. Nhiều trường hợp người tìm việc đồng ý nhận việc ngoài ra một thời kì sau họ lại từ chối và xin lỗi vì họ cảm thấy không phù hợp, và nhận một công tác khác. Vì thế, trong quá trình phỏng vấn, nhà phỏng vấn nên tìm hiểu thật kỹ về những ước vọng và tâm tình của các ứng cử viên, để phòng tránh các trường hợp trên”, bà Nguyệt khuyến cáo.

Là giám đốc cáng đáng tuyển dụng nhân sự đơn vị Connell Bros - nhà phân phối quốc tế hàng đầu trong ngành công nghiệp hóa chất Việt Nam, bà Hoàng Thị Tâm Uyên cho biết thêm: “Trong nhiều trường hợp, các ứng cử viên đã có sự chuẩn bị nhằm đưa ra những thành tích hay khả năng không đúng với thật tế, nhà tuyển dụng cũng có thể đưa ra một số từ khóa (keyword) mà chỉ các chuyên viên thật sự ở cấp độ đó mới có thể biết được. Thí dụ: Đối với các vị trí quản lý về kinh doanh trong ngành hóa chất, nhà phỏng vấn có thể đưa ra các từ khóa như BUM hay SBU … Đây là những từ khóa mà chỉ những quản lý kinh doanh trong ngành thật sự mới sử dụng và hiểu được khái niệm, cách thực thi”.

Quantri.Vn

Lăng xê tuyển dụng nhân sự: Nên tránh đề cập đến giới tính - Hr views

Lăng xê tuyển dụng nhân sự: Nên tránh đề cập đến giới tính

(TBTCO) - Nghiên cứu của ILO và Navigos Search cho thấy, 1/5 lăng xê tuyển dụng đưa ra các yêu cầu về giới tính và ưu tiên nam giới. Các chuyên gia khuyến cáo, điều này sẽ ảnh hưởng đến khả năng DN có thể hưởng lợi tối đa từ tuấn kiệt của người cần lao mới được tuyển dụng, dù là nam hay nữ.



Phân biệt đối xử theo giới tính vẫn phổ quát

Phân biệt đối xử theo giới tính vẫn phổ biến trong thực tế tuyển dụng trong vô kể doanh nghiệp tư nhân tại Việt Nam. Đó là những phát hiện chính từ một nghiên cứu mới nhất có tựa đề “đồng đẳng giới trong thực tế tuyển dụng và thăng tiến tại Việt Nam” do tổ chức lao động Quốc tế (ILO) phối hợp với doanh nghiệp tuyển dụng nhân sự Navigos Search thực hành.

1/5 trong số 12.300 lăng xê tuyển dụng trên bốn cổng thông báo việc làm lớn nhất Việt Nam (Vietnamworks, JobStreet, CareerBuider, Career Link) trong thời gian từ giữa tháng 11/2014 đến giữa tháng 1/2015 có đưa ra đề nghị về giới tính.

Trong số các việc làm đăng tuyển có nhân tố giới, 70% đề xuất chỉ tuyển nam giới, trong khi chỉ có 30% mong muốn ứng viên nữ nộp giấy tờ.

Nam giới thường được nhắm tới cho các công tác mang tính chất chuyên sâu hơn và đòi hỏi kỹ năng cao hơn hoặc các công tác đề xuất di chuyển nhiều, như kiến trúc sư, lái xe, kỹ sư, công nghệ thông tin… Trong khi đó, nữ giới thường được đề nghị cho các công việc mang tính chất tương trợ và văn phòng như lễ tân, thư ký, kế toán, nhân sự và hành chính...

Cũng trong phạm vi của nghiên cứu, một cuộc khảo sát với các chủ lao động trong khu vực tư nhân vào tháng 1/2015 cho thấy, khi đưa ra quyết định tuyển dụng, ngoài yêu cầu trình độ học vấn và kinh nghiệm làm việc, 2/3 chủ lao động hỏi các câu hỏi về khả năng làm việc ngoài giờ, tình trạng hôn nhân, thông báo về kế hoạch sinh con và thường dành sự ưu tiên cho nam giới.

Trong trường hợp phụ nữ được tuyển dụng vào làm việc, chỉ có 60% chủ cần lao cho biết sẽ tính thời gian nghỉ thai sản vào thâm niên công tác của người lao động theo như quy định của luật pháp. Hiện giờ, thâm niên công việc cũng là nguyên tố quan yếu khi người sử dụng lao động căn cứ để ra quyết định thăng chức, điều này là một bất lợi lớn đối với cần lao nữ để tiến xa hơn trong sự nghiệp.

Những phát hiện này cũng cho thấy, người sử dụng lao động không muốn tuyển dụng những nữ giới dự định có con trong mai sau gần, vì sợ việc sinh nở của họ có thể ảnh hưởng tới phí tổn và hiệu quả của doanh nghiệp. Bên cạnh đó, ý kiến cho rằng phụ nữ - chứ không phải đàn ông, chịu bổn phận chính đối với các công tác nội trợ, săn sóc trẻ và những người phụ thuộc khác là một yếu tố quan trọng trong quyết định tuyển dụng.

Đẩy lùi phân biệt giới giúp đơn vị thành công

thông qua việc công khai yêu cầu về giới khi đăng tuyển việc làm, việc tiếp cận của nữ giới đối với một số loại hình công việc khăng khăng bị hạn chế, do đó họ bị tước đi những cơ hội quan trọng trong thị trường lao động.

Giám đốc ILO Việt Nam, Gyorgy Sziraczki khuyến cáo: “quảng cáo tuyển dụng nên tránh đề cập đến giới tính bởi đó là hình thức trực tiếp của phân biệt đối xử theo giới, và “những bức tường vô hình” ấy sẽ dẫn đến sự tụ hội về giới theo nghề nghiệp và chức năng công tác. Điều này có thể sẽ ảnh hưởng đến khả năng DN có thể hưởng lợi tối đa từ anh tài của người lao động mới được tuyển dụng dù là nam hay nữ.

Tại Việt Nam, số liệu của UNESCO cho thấy, số lượng nữ giới học từ đại học trở lên luôn cao hơn nam giới trong thời đoạn từ năm 2007 đến 2011. Cũng có chứng cứ chứng minh lợi ích của DN trong việc sử dụng các nhân tài là đàn bà – bao gồm việc thích ứng với một thị trường tiêu dùng ngày một ảnh hưởng nhiều bởi phụ nữ.

Do phụ nữ thường xuyên kiểm soát ngân sách hộ gia đình, đưa ra các quyết định tài chính và sức mua của họ đang tăng lên, họ là những khách hàng và người tiêu dùng quan yếu đối với các sản phẩm và dịch vụ. Thành thử, việc đưa ra các quyết định quan trọng tại các DN cần có sự tham gia của cả đàn bà và nam giới.

ILO khuyến cáo, phân biệt đối xử giữa nam giới và nữ giới tại Việt Nam có cỗi nguồn xã hội sâu xa. Bởi vậy theo ILO, để giúp thu hẹp khoảng cách về giới tại nơi làm việc cũng như mang lại ích lợi cho DN cần đưa ra các quy định cụ thể để ngăn cấm các hành vi phân biệt đối xử dựa trên giới tính, chả hạn như quảng cáo việc làm có đề cập đến giới tính; đảm bảo việc thực thi luật pháp về bình đẳng giới phê duyệt đội ngũ thanh tra cần lao được tập huấn và có nhận thức tốt về đồng đẳng giới...

Nâng cao nhận thức của công chúng về ích lợi kinh tế - xã hội của bình đẳng giới và đổi thay tư duy của người sử dụng cần lao, nhằm gỡ bỏ những định kiến và rào cản văn hóa vốn đã tồn tại từ lâu đời; tạo cơ chế linh hoạt trong phạm vi pháp luật cho phép đàn bà có thể xếp đặt hiệu quả công tác cũng như những ràng buộc về mặt thời gian dành cho gia đình; bảo đảm đàn bà và nam giới được tạo thời cơ đồng đẳng trong các chương trình tập huấn và chỉ dẫn đặc biệt.../.
Hồng Chi

4 cách để nhà lãnh đạo khắc phục sự nhút nhát

Nói tới các nhà lãnh đạo, ai cũng nghĩ họ luôn là người cứng cỏi, quyết liệt, song thực tại vẫn có những người tính nhút nhát lại hay nể ngại. Điều đó đã hạn chế năng lực quản lý của họ. Bài viết này chỉ ra cách khắc phục những “rào cản” ấy.



Tác giả Melody Wilding trong bài báo mới đây trên trang Forbes đã khẳng định, người ta hoàn toàn có thể học hỏi và cải thiện tính cách rụt rè, nhút nhát để trở thành nhà lãnh đạo hiệu quả, có uy lực.

Bà đã chỉ ra 4 thách thức và cách vượt qua chúng nếu rơi vào tình huống này:

Thách thức số 1: Xuất hiện trước đám đông

Mới nghe qua tưởng như đây là điều rất đơn giản. Bạn tự giới thiệu mình với mọi người và trái lại, rồi sau đó mọi chuyện tiếp tục.

Nhưng trên thực tiễn, mọi sự không trơn đến vậy. Hãy mường tượng như bạn được dẫn qua một loạt các phòng ban, gặp gỡ với rất nhiều nhân viên cấp dưới, bị “soi” bởi hàng chục hay hàng trăm cặp mắt, thật khó để có cách “phá băng” hiệu quả và bớt vụng về trong giai đoạn tiếp xúc trước nhất với mọi người như thế.

Cách vượt qua thách thức:

Nếu không phải là một người hoạt khẩu bẩm sinh, bạn hãy tìm hiểu về hàng ngũ cộng sự của mình theo cách riêng của mình.

Tác giả Melody Wilding gợi ý một cách theo bà đơn giản và dễ vận dụng nhất: duyệt các cuộc nói chuyện một đối một. Bằng cách đó, bạn không bị cuốn vào quá nhiều trao đổi cùng lúc và bị “soi” giữa đông đảo viên chức.

Thêm nữa, với cách xếp đặt trước các cuộc họp, cả viên chức và lãnh đạo đều có cơ hội chuẩn bị.

Nhà quản lý có thể gửi chương trình làm việc tới cho viên chức, xác định trước những chuyện sẽ bàn và sau đó, dành thời gian lắng tai mọi người.

Khi bạn càng ngày càng hiểu rõ cấp dưới của mình, bạn sẽ thấy bàn luận với họ dễ dàng hơn trong các hội thoại hàng ngày khác.

Thách thức số 2: đàm đạo những nội dung khó nói

Nếu việc tìm hiểu cấp dưới thôi đã là chuyện không đơn giản với bạn, thì việc phải nói những chuyện như phê bình khi cấp dưới làm việc không đạt kết quả như mong muốn, hoặc tệ hơn là phải sa thải họ, còn khó khăn hơn gấp bội.

Cách vượt qua: Trong những trường hợp này, tốt nhất bạn nên có một người có kinh nghiệm quản lý chỉ dẫn bạn cách thức tiến hành đàm luận.

Việc chỉ dẫn này đòi hỏi tính cụ thể kiểu “cầm tay chỉ việc” như khi xúc tiếp sẽ nói gì, nói như thế nào và tiếp tục vấn đề ra sao.

Thách thứ số 3: bàn luận trong cương vị lãnh đạo

Dù có những khi bạn phải làm việc riêng với từng nhân sự cấp dưới trong công việc cụ thể, nhưng phần lớn thời gian còn lại, bạn phải là một người quản lý. Do đó, bạn sẽ phải chủ trì cuộc họp, cắt cử công tác, thiết lập mục tiêu và khuyến khích tập thể nhân viên đạt được các tiêu chí mong muốn. Với một nhà quản lý nhút nhát, điều này thật khó khăn.

Cách vượt qua: Giải quyết thách thức này chẳng thể nhanh được. Theo kinh nghiệm của tác giả Melody Wilding, bà có một giải pháp gồm 2 phần.

Thứ nhất, trên cơ sở các cuộc đối thoại một – một như đã đề cập ở thách thức số 1, bà nỗ lực tạo không khí thân tình, thoải mái với viên chức. Khi hiểu rõ họ ở góc độ cá nhân, bà cảm thấy tự tín hơn trong quá trình giao thiệp công tác.

Thứ hai, phần chuẩn bị rất quan yếu. Là nhà quản lý, bà Melody Wilding nhận ra các nhân viên của bà luôn thắc mắc về mọi điều. Chẳng hạn, nếu công ty đưa ra một chính sách mới trong cuộc họp, tức tốc họ sẽ muốn biết vì sao lại khai triển chính sách đó, những ai sẽ chịu ảnh hưởng chính sách này và người quản lý sẽ làm gì để giúp họ hoàn thành điều đó, v.V…

Nếu nhà quản lý không trả lời được các thắc mắc ấy, cái ghế của họ chắc chắn sẽ lung lay. Ngoại giả, khi có sự chuẩn bị trước những thông báo giải đáp cần thiết, người quản lý sẽ thấy kiên định và vững vàng hơn.

Thách thức số 4: Giải quyết tất cả những thách thức trên (và còn nhiều hơn nữa)

Thoát khỏi “vùng an toàn” trong tính cách bản năng của mỗi người để khắc phục những hạn chế là câu chuyện không đơn giản. Để trở thành nhà quản lý hiệu quả, mạnh mẽ, rõ ràng cần sự nỗ lực không ngừng của bạn trong một thời kì dài.

Không ít người đã mất kiên nhẫn, bỏ cuộc. Nhưng nếu bạn vẫn muốn trở nên nhà lãnh đạo, hãy bền chí bám trụ. Tin mừng là theo thời kì, mọi sự sẽ dễ dàng hơn.

Khi bạn đã hiểu rõ hàng ngũ nhân viên của mình và cảm thấy thoải mái khi ở bên họ, bạn cũng sẽ cảm thấy mạnh mẽ hơn trong việc dẫn dắt, lãnh đạo họ. Những cuộc trò chuyện khó khăn sẽ trở nên đơn giản hơn. Bạn sẽ tự tín hơn khi chỉ dẫn và tập huấn đội ngũ của mình.

Theo DNSG